Còn nhiều thách thức trong bảo đảm an ninh năng lượng
Theo đại điện Cục Điện lực và năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, những thách thức chủ yếu mà ngành năng lượng Việt Nam đã đang và sẽ phải đối mặt là nguy cơ thiếu hụt nguồn điện cho phát triển kinh tế đất nước do hạn chế về nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước, dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, đặc biệt nhiên liệu cho phát điện. Bên cạnh đó, tốc độ tăng cao nhu cầu năng lượng gây sức ép lên hạ tầng cơ sở ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong bối cảnh nợ công tăng cao và quá trình cổ phần hóa chưa thuận lợi. Cùng với đó, là thách thức về các tác động môi trường của các hoạt động cung cấp năng lượng sẽ ngày càng gia tăng do nhu cầu năng lượng trong nước tăng nhanh, đi kèm với sự gia tăng nhanh chóng về tỷ trọng các nguồn nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than trong cơ cấu nguồn cung năng lượng.
Toàn cảnh Diễn đàn năng lượng Việt Nam. Ảnh VGP Toàn Thắng |
Cùng với những thách thức cơ bản nêu trên, ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng việc bảo đảm điện nói riêng, bảo đảm an ninh năng lượng nói chung thực tế rất khó khăn, nhất là trong bối cảnh chúng ta đã quyết định dừng các dự án điện hạt nhân nhưng các nguồn điện thay thế cho điện hạt nhân chủ yếu là năng lượng tái tạo đang còn rất nhiều bất cập chưa được giải quyết.
Theo dự báo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong giai đoạn đến năm 2030, nhu cầu sử dụng điện sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Ngành điện cần phải đảm bảo sản xuất 265-278 tỷ kWh vào năm 2020 và khoảng 572-632 tỷ kWh vào năm 2030. Tính đến cuối năm 2018, tổng công suất lắp đặt toàn hệ thống dự kiến đạt 47.768MW, tăng 5,41 lần so với năm 2003, đứng thứ 2 trong các nước ASEAN và thứ 25 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 là 10,3-11,3%/năm, giai đoạn 2021-2030 khoảng 8-8,5%/năm.
Ông Ngô Sơn Hải, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam bày tỏ lo ngại việc bảo đảm cung ứng điện toàn quốc trong thời gian tới sẽ có nhiều rủi ro. Cụ thể, các dự án nguồn điện đã được khởi công xây dựng để đưa vào vận hành trong 5 năm tới rất thấp so với yêu cầu tại Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Dẫn ra số liệu cụ thể ông Hải cho biết: Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh trong 5 năm 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện dự kiến đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện là 26.000MW.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay chỉ có 7 dự án nhiệt điện than/7.860MW đã được khởi công và đang triển khai xây dựng. Như vậy, còn trên 18.000MW/ 26.000 MW các dự án nhiệt điện than dự kiến vào vận hành trong 5 năm tới nhưng đến nay chưa được khởi công xây dựng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc cung ứng điện các năm tiếp theo.
Nhiều dự án nguồn điện, nhất là các dự án nhiệt điện tại miền Nam tiềm ẩn rủi ro và có thể sẽ tiếp tục bị chậm tiến độ so với đánh giá tại thời điểm hiện nay. Cùng với đó, các nguồn khí thiên nhiên trong nước hiện đang khai thác đã suy giảm nhưng chưa có nguồn cấp khí thay thế. Tiến độ dự kiến khí lô B và khí Cá Voi Xanh vẫn còn nhiều rủi ro về tiến độ.
Đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn
Ông Ngô Sơn Hải, Phó Tổng Giám đốc EVN chỉ ra những khó khăn, thách thức và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm an ninh năng lượng. Ảnh VGP Toàn Thắng |
Trên cơ sở tình hình thực hiện Quy hoạch điện VII điều chỉnh và kết quả cân đối cung cầu điện cập nhật đến năm 2030, để đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội, EVN đề xuất thực hiện các nhóm giải pháp kiểm soát nhu cầu phụ tải; giải pháp về bảo đảm nguồn cung trong đó có các giải pháp cần thực hiện và hoàn thành trong giai đoạn đến năm 2021, các giải pháp thực hiện và hoàn thành trong giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2030.
Theo đó, cần tăng cường các giải pháp sử dụng điện an toàn, tiết kiệm và hiệu quả và quản lý nhu cầu sử dụng điện (DSM), ưu tiên cho khu vực miền Nam. Trong đó cần có cơ chế của nhà nước để đẩy mạnh chương trình điều tiết phụ tải.
Thực hiện giá bán điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Giá bán điện cần kích thích phát triển ngành điện, tạo môi trường thu hút đầu tư và khuyến khích cạnh tranh trong các khâu sản xuất, truyền tải, phân phối, bán lẻ và sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời phân tán và các dự án điện mặt trời tại các khu vực khả thi về đấu nối, đặc biệt hỗ trợ và khuyến khích khách hàng sử dụng điện (sinh hoạt, khu công nghiệp, thương mại dịch vụ) đầu tư phát triển các dự án điện mặt trời áp mái, đặc biệt ở khu vực miền Nam.
Đối với nhóm giải pháp bảo đảm nguồn cung, theo EVN cần bảo đảm tiến độ đưa vào vận hành các công trình nguồn điện, đặc biệt các nguồn điện khu vực phía Nam như: Các dự án Nhiệt điện Long Phú 1, Sông Hậu 1, BOT Duyên Hải 2; bảo đảm tiến độ phát điện trở lại Nhà máy thủy điện Xekaman 3 - Lào (2020).
Bảo đảm cung cấp đủ khí cho phát điện, trong đó bổ sung kịp thời nguồn khí mới để thay thế cho các nguồn khí hiện hữu tại khu vực Đông Nam bộ, Tây Nam bộ đang suy giảm.
Có cơ chế về khung giá mua điện từ Lào để đẩy nhanh việc đàm phán với phía Lào nhằm thu gom các nguồn điện tại Nam Lào và các đường dây đấu nối để nhập khẩu về Việt Nam qua các đường dây 220kV hiện hữu.
Trong giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2030 phải đàm phán với chủ đầu tư các nhà máy điện tại Lào để đấu nối bán điện trực tiếp về lưới điện Việt Nam; giải quyết các vướng mắc và có cơ chế chính sách nhằm bảo đảm tiến độ Chuỗi dự án khí lô B, khí Cá Voi xanh và các dự án nguồn điện đồng bộ; tiếp tục khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời áp mái để giảm nhu cầu sử dụng điện và tăng nguồn cung cho hệ thống.
Chuyên gia kinh tế, TS Trần Đình Thiên cho rằng, cần phải quan tâm đến quản lý phía cầu trong đảm bảo an ninh năng lượng. Theo đó, cách tiếp cận phải nằm chung trong sự phát triển của nền kinh tế, nghĩa là phải thay đổi và tính toán theo cơ chế thị trường, do thị trường quyết định. Cụ thể, về việc đáp ứng nhu cầu năng lượng, ông Trần Đình Thiên cho rằng, phải tính toán về cầu thay vì tập trung phát triển theo cách tiếp cận và tập trung về phía cung.
Toàn Thắng