Các khách mời tọa đàm. Ảnh: VGP |
Cuộc tọa đàm cung cấp cho bạn đọc thêm một góc nhìn về những hoạt động trong phong trào hưởng ứng “Ngày Pháp luật Việt Nam 2019” sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Cuộc tọa đàm cũng đề cập công tác giáo dục, phổ biến pháp luật hiện nay.
Khách mời tọa đàm, gồm:
-TS. Lê Vệ Quốc, Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp;
-TS. Bùi Xuân Phái, Phó Trưởng Bộ môn Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Khoa Pháp luật hành chính nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội;
-Bà Nguyễn Thị Thược, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang.
Nội dung tọa đàm:
Sau 15 năm triển khai Chỉ thị số 32-CT/TW, công tác PBGDPL đã đạt được những kết quả cụ thể như thế nào, thưa ông Lê Vệ Quốc?
Ông Lê Vệ Quốc: Chặng đường triển khai Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ. Tôi có thể nêu một số kết quả cơ bản như sau.
Thứ nhất, nhận thức, ý thức trách nhiệm của cấp ủy, Đảng, chính quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) đã được cải thiện. Điều đó được minh chứng thông qua việc ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo. Xây dựng các kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết,đánh giá công tác PBGDPL đã được các cấp, các ngành triển khai hằng năm. Từ đó kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập để tháo gỡ, đồng thời phát huy những điểm mạnh trong công tác này.
Thứ hai, thể chế chính sách của công tác PBGDPL ngày càng được hoàn thiện. Điểm nhấn là năm 2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác này.
Thứ ba, nguồn nhân lực phục vụ cho công tác PBGDPL đã được cải thiện về số lượng và chất lượng. Chẳng hạn năm 2003, các báo cáo viên pháp luật của Trung ương chỉ có gần 300 người. Đến năm 2016- 2017 đã có gần 2.000 báo cáo viên pháp luật của Trung ương.
Thứ tư, các hình thức PBGDPL được thay đổi, đảm bảo tính linh hoạt, hấp dẫn, đáp ứng được mong muốn từ phía người nghe, người cần thực hiện các thông tin pháp luật, nhất là các tầng lớp nhân dân. Nội dung của công tác PBGDPL ngày càng được chắt lọc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng lĩnh vực, vùng miền và đối tượng.
Thứ năm, suốt 15 năm qua, bên cạnh việc huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, công tác PBGDPL đã được sự hỗ trợ từ phía xã hội rất lớn, giúp cho công tác PBGDPL được triển khai rộng khắp, có chiều sâu trên phạm vi cả nước.
Ông Lê Vệ Quốc, Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp. Ảnh: VGP |
Ông Lê Vệ Quốc: Thực tế cho thấy 15 năm triển khai Chỉ thị 32, công tác PBGDPL đã gặt hái được nhiều kết quả, thay đổi về lượng và chất. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Đặc biệt là nhận thức của một số cấp ủy Đảng về công tác này.
Theo Thông báo số 74-TB/TW ngày 11 tháng 5 năm 2007 thông báo kết luận của Ban Bí thư tiếp tục thực hiện Chỉ thị 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Ban Bí thư đã khẳng định, ở một số nơi cấp ủy Đảng “khoán trắng” công tác PBGDPL cho chính quyền. Mặc dù vấn đề này dần được khắc phục nhưng vẫn chưa dứt điểm hoàn toàn.
Để khắc phục vấn đề này, từ năm 2007 đến nay, Ban Bí thư cũng như các cấp ủy Đảng có nhiều giải pháp khác nhau như tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề, hội nghị tập huấn để quán triệt một cách sâu rộng ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác PBGDPL.
Từ thực tiễn địa phương, sau 15 năm triển khai Chỉ thị số 32-CT/TW, chúng ta có thuận lợi hạn chế như thế nào trong triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thưa bà Thược?
Bà Nguyễn Thị Thược: Sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32, đối với các địa phương nói chung, tỉnh Tuyên Quang nói riêng, chúng tôi thấy có rất nhiều thuận lợi.
Thứ nhất, đó là chủ trương, chính sách, thể chế về công tác PBGDPL của chúng ta tương đối hoàn thiện. Ở địa phương, Tỉnh ủy Tuyên Quang cũng ban hành Chỉ thị về đẩy mạnh công tác PBGDPL, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Trước khi có Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành 2 văn bản quy phạm pháp luật quy định về: Quy định trách nhiệm của ngành, các cấp trong công tác PBGDPL và Quy chế thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết quy định về kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL.
Hằng năm, tỉnh căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tư pháp để xây dựng các chương trình dài hạn, kế hoạch hằng năm, kế hoạch chuyên đề triển khai cho công tác PBGDPL.
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị theo đúng tinh thần Chỉ thị số 32-CT/TW nên công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã có những chuyển biến rất tích cực. Trách nhiệm của các ngành, các cấp từ đó đã có những nhận thức khác. Trước đây cho rằng công tác PBGDPL là của ngành tư pháp nhưng sau khi có Chỉ thị số 32 của Trung ương, Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các văn bản HĐND, UBND tỉnh thì các ngành, các cấp, cấp ủy, những người đứng đầu nhận thức đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tất cả đều vào cuộc. Từ đó việc triển khai công tác PBGDPL rất bài bản, rất thuận lợi.
Hoạt động của HĐND phối hợp trong việc tư vấn, hướng dẫn, triển khai các văn bản pháp luật đến hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật rất là tốt.
Đội ngũ cán bộ công chức xác định công tác PBGDPL là trách nhiệm của mình để vừa thi nhiệm vụ vừa tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân cùng thực hiện.
Tuy nhiên chúng tôi thấy vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Như anh Quốc đã chia sẻ, công tác PBGDPL về mặt nội dung có nơi còn dàn trải, hình thức chưa sát với từng đối tượng nên hiệu quả chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ hai, vẫn còn một số cấp ủy, chính quyền ở cơ sở, một số ngành chưa thực sự quan tâm đến công tác PBGDPL. Nhất là những văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực đó. Vì vậy sẽ có những phát sinh, việc thực thi pháp luật không nghiêm. Trình độ hiểu biết của nhân dân ở một số nơi còn hạn chế.
Thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ trọng án mang tính chất tàn bạo, nguy hiểm; Các “ đại án” ma túy, tham nhũng cũng liên tục bị phát hiện. Trong số tội phạm có cả đối tượng là cán bộ, công chức vi phạm pháp luật ở mức độ nghiêm trọng. Ông/bà có ý kiến như thế nào về vấn đề này?
Ông Lê Vệ Quốc: Trong thời gian vừa qua, trên phạm vi cả nước, ở một số nơi đã xảy ra các vụ trọng án. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những sự việc nói trên. Xét dưới góc độ người làm công tác PBGDPL, chúng tôi nhận thấy có một số nguyên nhân.
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy Đảng, đặc biệt là người đứng đầu đối với công tác PBGDPL nói riêng và tổ chức thi hành pháp luật nói chung vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía quản lý nhà nước cũng như mong muốn của người dân.
Thứ hai, phải thừa nhận một cách thẳng thắn, một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu gương mẫu trong việc tìm hiểu pháp luật, đặc biệt là vấn đề nêu gương trong ý thức chấp hành pháp luật.
Thứ ba, một bộ phận người dân chưa có ý thức tự giác tìm hiểu pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của bản thân mình, của người thân của mình và sự công bằng chung của xã hội.
Thực tế có những mâu thuẫn, tranh chấp không lớn nhưng do nhận thức, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên đã tạo ra những bức xúc, không kiềm chế được hành vi ứng xử của mình, từ đó gây ra những hậu quả vô cùng đáng tiếc.
Ông Bùi Xuân Phái, Phó Trưởng Bộ môn Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Khoa Pháp luật hành chính nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội. Ảnh: VGP |
Ông Bùi Xuân Phái: Theo tôi nguyên nhân phần lớn là do sự thiếu hiểu biết pháp luật. Sự thiếu hiểu biết pháp luật là do công tác phổ biến tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả; thứ hai là ý thức của người dân chưa cao trong việc cố gắng tìm hiểu quy định pháp luật bởi pháp luật không chỉ để duy trì trật tự xã hội nên nếu mỗi người hiểu biết pháp luật thì họ sẽ tự bảo vệ được mình. Như vậy sẽ không còn những trường hợp bộc phát, gây ra thảm án. Trên thực tế có những trường hợp rất đau lòng, chủ yếu là do người ta không hiểu biết, không có khả năng tự vệ bằng pháp luật.
Nguyên nhân thứ hai là một số cán bộ, công chức thiếu nghiêm túc trong việc nghiên cứu pháp luật.
Nguyên nhân thứ ba là ý thức trách nhiệm của công dân vẫn còn hạn chế. Theo tôi được biết, ngay việc đưa chương trình “Giáo dục công dân” vào học đường vẫn còn một số vấn đề.
Thực tế, thiếu hiểu biết sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Vì vậy biện pháp đầu tiên là tăng cường giáo dục pháp luật để tăng cường sự hiểu biết pháp luật. Khi đó mọi người sẽ chủ động đối với hành vi trong cách ứng xử.
Hiện nay các hình thức của giáo dục pháp luật còn có những hạn chế nhất định, chưa thực sự đa dạng, sinh động, chưa hấp dẫn, thu hút đối với đối tượng được thụ hưởng.
Như vậy cùng với giáo dục, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc vi phạm cũng như cần có sự phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là giữa các cơ quan Bộ Tư pháp, các cơ quan truyền thông, các cơ sở giáo dục và đặc biệt trong mỗi gia đình. Sự kết hợp này phải thường xuyên.
Ông Lê Vệ Quốc: Tôi xin bình luận thêm vấn đề này.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, đến với mọi người dân, không chỉ đến trong nhận thức, trong hiểu biết mà còn phải đến trong trái tim của mọi người dân thì có rất nhiều yêu cầu đặt ra.
Điều kiện cần là pháp luật phải phù hợp, khả thi, đồng bộ thống nhất. Điều kiện đủ là có cơ chế thực thi pháp luật nghiêm minh.
Như vậy người dân vừa hiểu biết pháp luật, đồng thời tin vào pháp luật, tin vào cơ chế thực thi pháp luật. Từ đó tạo nên ý thức tuân thủ pháp luật.
Thưa các vị khách mời, những năm gần đây, số lượng tội phạm thanh thiếu niên ở mức cao, số tuổi ngày càng trẻ hóa. Có thể nói, việc PBGDPL với thanh thiếu niên là sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, trong đó có ngành giáo dục. Tuy nhiên, ở nhà trường hiện nay, môn Giáo dục công dân vẫn thường bị coi là... “môn học phụ”. Quan điểm của ông/bà về vấn đề này?
Ông Bùi Xuân Phái: Hiện nay, nhiều thanh thiếu niên quên mất đạo đức truyền thống, xa rời giá trị căn bản để đi tìm những giá trị phù phiếm, thậm chí trong thế giới ảo. Họ bị ảnh hưởng của truyền thông tiêu cực trên mạng xã hội do thiếu bản lĩnh, bị lôi kéo. Rất nhiều nước phát triển trên thế giới họ cũng phát triển mạng xã hội, nhưng tình trạng tội phạm không đến mức nghiêm trọng như vậy.
Chúng ta phải xem xét liệu có việc giáo dục ý thức trách nhiệm công dân chưa được sự quan tâm đúng mức? Qua việc biên soạn sách giáo khoa Giáo dục công dân (GDCD), tôi thấy có một số nội dung chưa chính xác, còn hình thức khá đơn điệu, không hấp dẫn người học. Nếu học với tư cách là nghĩa vụ thì chỉ học cho có, học cho xong, học để đi thi. Thậm chí, như tôi biết, hiện nay, học sinh chỉ cần thoát điểm liệt môn GDCD là có thể đạt yêu cầu nhờ điểm môn khác bù lại. Đây là một sai lầm.
Môn GDCD rất quan trọng, vì nó bao hàm trách nhiệm công dân và sự hiểu biết về pháp luật. Tôi cho rằng chúng ta cần xem xét lại để có thái độ và đầu tư đúng mức cho môn GDCD, đồng thời thay đổi phương pháp giảng dạy gần với cuộc sống hơn.
Bà Nguyễn Thị Thược: Công tác giáo dục trong nhà trường cần được quan tâm chú trọng hơn nữa, phải được quan tâm từ cấp mẫu giáo, cáp tiểu học. Tôi rất lo ngại vấn đề đội ngũ giáo viên dạy môn GDCD, dạy môn pháp luật trong nhà trường hiện nay, họ cần phải được bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ. Tôi đã giật mình khi có lần được tiếp xúc với bộ môn GDCD ở cấp tiểu học. Đó là khi dạy một tiết học về an toàn giao thông, giáo viên lại dẫn những văn bản đã hết hiệu lực từ rất lâu rồi. Chính vì vậy, ngoài việc quan tâm giáo trình giảng dạy thì đội ngũ giáo viên dạy môn GDCD, môn pháp luật cũng phải được chuẩn hóa.
Ông Lê Vệ Quốc: Đã có một thời gian môn GDCD bị coi nhẹ trong nhà trường, không phải chỉ ở phía nhà quản lý, người giảng dạy mà ngay cả các bậc phụ huynh. Vấn đề này đã được khắc phục dần, từ năm 2017 - 2018 trở đi, môn GDCD đã trở thành môn thi bắt buộc trong kì thi tốt nghiệp THPT.
Bên cạnh đó, đội ngũ giảng dạy môn GDCD hay môn pháp luật trong các cơ sở đào tạo đã thay đổi cả về chất và về lượng. Họ được tập huấn nhiều hơn, không chỉ kiến thức mà cả về kỹ năng.
Tuy nhiên, như 2 vị khách mời vừa chia sẻ, vấn đề giáo dục trong nhà trường cũng như chất lượng môn GDCD vẫn đang có vấn đề. Ví dụ chương trình sách giáo khoa có những nội dung không phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi và nhu cầu cuộc sống của các em. Đặc biệt, phải tạo cho các em những phẩm chất của một công dân mẫu mực trong tương lai, không vô cảm trước những câu chuyện xảy ra xung quanh mình.
Đã có không ít trường hợp quy định pháp luật bất cập, thiếu tính thực tiễn, vừa ban hành đã phải thu hồi ngay lập tức vì bị người dân phản đối hoặc lặng lẽ “bỏ xó” như chưa bao giờ ra đời. Cũng có nhiều trường hợp các quy định pháp lý được đánh giá là cần thiết, hợp lý, được người dân ủng hộ, nhưng thực thi thiếu hiệu quả hoặc bất khả thi về mặt thực thi, cũng làm trầm trọng hơn tình trạng luật pháp không phù hợp với thực tiễn. Lâu nay, chúng ta vẫn nói “đưa pháp luật vào cuộc sống”, vậy, chúng ta đã thực sự “đưa cuộc sống vào pháp luật” hay chưa? và nguyên nhân từ đâu mà một số luật ban hành chưa phù hợp với thực tế cuộc sống và chưa xử lý, giải quyết được những yêu cầu mà đời sống đã đặt ra thưa các vị khách mời?
Ông Lê Vệ Quốc: Chúng ta cố gắng đưa pháp luật vào cuộc sống, nhưng để làm được điều đó thì điều tiên quyết là chúng ta phải phản ánh được cuộc sống vào trong từng quy định của pháp luật.
Thời gian qua, có rất nhiều văn bản được ban hành ra nhưng thiếu tính khả thi. Vì vậy, việc tổ chức triển khai, thi hành, áp dụng những văn bản đó vào cuộc sống rất khó khăn. Bên cạnh đó, ý thức, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu còn chểnh mảng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống. Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng của pháp luật; kiểm tra, đánh giá những sai phạm để xử lý nghiêm minh ở một số nơi thực sự chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả những cái đó cộng hưởng tạo nên sự bất cập khi đưa pháp luật vào cuộc sống.
Ông Bùi Xuân Phái: Pháp luật sinh ra để tổ chức, bảo vệ cuộc sống; duy trì trật tự an toàn xã hội, mang lại lợi ích cho cộng đồng. Nhưng rõ ràng chúng ta đang gặp vấn đề trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống.
Việc chúng ta cập nhật thông tin để xác định nhu cầu của xã hội là một việc cực kỳ quan trọng. Đôi khi, phải tạo ra nhu cầu cho người ta tìm hiểu, kích thích việc tìm hiểu pháp luật và việc tuyên truyền, phổ biến như thế nào để người ta nhận thức đúng về pháp luật. Đặc biệt, vấn đề xây dựng pháp luật cần có sự quan tâm, đầu tư đúng mức của các chuyên gia và chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
Bà Nguyễn Thị Thược, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang. Ảnh: VGP |
Bà Nguyễn Thị Thược: Tôi đã làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật hơn 20 năm nay. Trong quá trình thực hiện, tôi nhận thấy hiện nay mỗi cá nhân chịu sự ràng buộc của rất nhiều quy định pháp luật chính. Vì vậy, chúng ta không thể làm công tác PBGDPL trong một ngày, một giờ.
Tôi nghĩ rằng công tác PBGDPL phải được làm thường xuyên, liên tục, chủ động từ phía cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và từ mỗi một cá nhân. Chúng ta phải thấy đó là nhu cầu tự thân để bảo vệ chính mình, bảo vệ cho gia đình mình và tổ chức thực thi tốt nhất cho tổ chức của mình.
Ví dụ, do đặc điểm vùng miền, nên có nhiều quy định phù hợp với thành phố nhưng không phù hợp với Tuyên Quang chẳng hạn! Vậy thì việc phổ biến chính sách cho từng đối tượng, từng người dân ở các vùng miền khác nhau cũng phải phù hợp. Làm được như vậy thì khi chúng ta triển khai tuyên truyền, người dân họ mới cảm thấy không bị bỏ rơi. Khi đó, người ta sẽ thực sự quan tâm đến vấn đề mình tuyên truyền. Tôi mong rằng các cơ quan khi tham mưu với Chính phủ, tham mưu với các bộ ban hành các luật, nghị định cần sát thực tế, lắng nghe ý kiến từ cơ sở trong quá trình xây dựng pháp luật.
Để việc PBGDPL hiệu quả, đi vào lòng dân, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan (lập pháp, hành pháp, tư pháp), thưa các vị khách mời?
Ông Lê Vệ Quốc: Chỉ thị số 32 đã xác định công tác PBGDPL là một nội dung của công tác chính trị tư tưởng, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Cụ thể hóa tinh thần đó, trong thời gian vừa qua, theo quy định của Luật PBGDPL, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định cho phép thành lập các hội đồng phối hợp PBGDPL từ Trung ương đến địa phương. Thông qua cơ chế hoạt động của các hội đồng này, công tác PBGDPL đã có những sự gắn kết phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức đoàn thể, để cùng thống nhất chương trình hành động, cùng thống nhất chương trình hành động, cùng triển khai hợp tác PBGDPL đảm bảo tính toàn diện. Đặc biệt, để huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn xã hội cho công tác này.
Để công tác PBGDPL đi vào cuộc sống hiệu quả có chiều sâu, cần sự phối hợp đồng lòng chung sức, phối hợp gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp.
Tôi lấy ví dụ, mỗi vị đại biểu Quốc hội chính là một báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Trước kỳ họp Quốc hội, họ tiếp xúc cử tri, lắng nghe người dân, đó chính là câu chuyện đưa cuộc sống vào pháp luật. Sau mỗi kỳ họp Quốc hội, họ lại chính là báo cáo viên trực tiếp phổ biến các chính sách pháp luật mới được thông qua tại kỳ họp. Đó chính là đưa pháp luật vào cuộc sống. Còn các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, việc PBGDPL được thông qua bằng việc xét xử các vụ án, đưa nội dung cơ bản của vụ án công khai trên Cổng TTĐT TAND Tối cao. Đấy là cách PBGDPL hiệu quả.
Năm 2019 là tròn 6 năm Ngày Pháp luật Việt Nam (ngày 9/11) đi vào cuộc sống theo tinh thần của Nghị định 28/2013/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Việc triển khai hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam năm nay có điểm gì mới so với mọi năm?
Ông Lê Vệ Quốc: Ngày Pháp luật 9/11 đã đi vào cuộc sống đến nay được 6 năm nay và hiệu quả rất tích cực trong việc nâng cao nhận thức, ý thức tìm hiểu, chấp hành pháp luật của mỗi người dân. Việc triển khai Ngày Pháp luật thể hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật; khẳng định vai trò của Hiến pháp, pháp luật đối với sự ổn định và phát triển đời sống, KT-XH; bảo đảm quyền con người, quyền công dân hướng tới Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Năm 2019, Ngày Pháp luật được triển khai sâu rộng. Các bộ, ngành, địa phương bằng nhiều hình thức đều hưởng ứng tích cực. Năm nay là năm bản lề kết thúc kế hoạch KT-XH 5 năm 2016-2021, hướng tới Đại hội Đảng các cấp 2020. Vì thế, Ngày Pháp luật năm nay có nhiều đổi khác. Về phía Bộ Tư pháp, bên cạnh những định hướng cho các bộ, ngành, địa phương hưởng ứng, chúng tôi tập trung thực hiện việc tổng kết 15 thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW. Đây cũng là một sự kiện hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam.
Để công tác PBGDPL thành công, chúng ta phải lấy giáo dục pháp luật trong nhà trường làm nền tảng. Đó là kim chỉ nam xuyên suốt từ nay trở đi trong công tác PBGDPL. Đồng thời, để thích ứng với cách mạng 4.0, chúng tôi phát động cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật dành cho các em học sinh THPT, sinh viên… với tên gọi “Pháp luật học đường”.Tối ngày 8/11, lễ phát động đã được tổ chức tại trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) đã gây tiếng vang và tạo được sự chú ý của thanh thiếu niên. Chúng tôi coi đó là những việc quan trọng trong Ngày Pháp luật Việt Nam 2019.
Tại Tuyên Quang, Ngày Pháp luật được triển khai như thế nào, hiệu quả ra sao, thưa bà Thược?
Bà Nguyễn Thị Thược: Ngày Pháp luật ở tỉnh Tuyên Quang được tổ chức với tiêu chí bám sát tôn chỉ mục đích theo quy định của luật, bám sát hướng dẫn của Bộ Tư pháp trong quá trình triển khai thực hiện. Ngày Pháp luật ở Tuyên Quang mỗi năm có một chủ đề khác nhau, và cách thức tổ chức cũng đa đạng và luôn đổi mới, phong phú đa dạng.
Năm 2019, đối với cấp tỉnh, chúng tôi đã đánh giá, tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 32; đánh giá 5 năm thực hiện Luật Hòa giải cơ sở. Trong ngày 8/11, UBND tỉnh cũng tổ chức hội nghị hưởng ứng Ngày Pháp luật. Tại hội nghi, UBND tỉnh đã biểu dương, khen thưởng gần 100 cá nhân, tập thể làm tốt công tác PBGDPL, công tác hòa giải giỏi. Chúng tôi cũng thời triển khai thực hiện Công ước quốc tế về chống tra tấn
Chúng tôi luôn mong muốn mỗi ngày sẽ luôn là Ngày Pháp luật. Mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi người dân cũng luôn phải xác định như vậy.
Trong thời gian tới, việc PBGDPL sẽ được triển khai theo hướng như thế nào, và ông/bà có kỳ vọng gì vào sự thay đổi nhận thức pháp luật của người dân trong bối cảnh xã hội hiện nay?
Ông Bùi Xuân Phái: Tôi không kỳ vọng mà tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ có những giải pháp phù hợp và tương thích, hay còn gọi là lộ trình để có những chuyển biến tích cực trong những hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Theo tôi, việc quan trọng nhất là nhận thức của con người về vai trò, ý nghĩa của pháp luật đối với đời sống. Từ đó, họ sẽ thay đổi thái độ, tôn trong pháp luật, đấu tranh để bảo vệ cho chính mình, đấu tranh trước những sự vi phạm pháp luật. Dần, họ sẽ trở thành những nhân tố, tấm gương để lan tỏa sự hiểu biết của mình qua công tác họ dã tham gia.
Tôi nghĩ đích đến cuối cùng là hành vi con người trở nên chuẩn mực nhờ sự PBGDPL đúng phương pháp, hình thức, nội dung.
Bà Nguyễn Thị Thược: Hiện nay, cả hệ thống chính trị đang có những chuyển biến rất lớn trong tổ chức thi hành pháp luật. Tổ chức thi hành pháp luật nghiêm thì công tác PBGDPL sẽ được coi trọng, là vấn đề tự thân của mỗi cá nhân.
Trong điều kiện KT-XH, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển sẽ hỗ trợ cho những người làm công tác PBGDPL như chúng tôi trong việc chuyển tải những quy định của pháp luật đến nhanh nhất, phù hợp với địa phương, với mỗi đối tượng.
Tôi hy vọng nhận thức của mỗi người dân sẽ thay đổi trong việc thấy bản thân mình phải chủ động tìm đến với pháp luật. Trong xu thế như vậy, các cơ quan chức năng chắc chắn phải quan tâm hơn nữa công tác PBGDPL với người dân.
Ông Lê Vệ Quốc: Chúng ta hãy hy vọng, và tin tưởng công tác PBGDPL trong tương lai sẽ đi vào thực chất, đáp ứng nhu cầu của người dân, hình thành một xã hội văn minh, công bằng.
Tôi nghĩ thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền cần tập trung và định hướng vào những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Tiếp tục khẳng định PBGDPL là nội dung quan trọng của giáo dục chính trị tư tưởng; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, và mỗi người dân; xác định trọng tâm, tiền đề công tác PBGDPL trong nhà trường. Bên cạnh văn hóa học đường, các em phải hình thành được những phẩm chất, nhân cách để có thể trở thành công dân trong tương lai; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL, thay đổi hình thức trong công tác tuyên truyền linh hoạt, phù hợp.
Công tác PBGDPL thường gặp nhiều khó khăn, nhất là ở những vùng sâu vùng xa, vì thế, đòi hỏi nguồn lực rất lớn mà ngân sách nhà nước khó đáp ứng. Một nghịch lý khách quan đang tồn tại đó là ở địa phương nào càng nghèo thì nhu cầu PBGDPL càng lớn, vì ở đó những đối tượng yếu thế chiếm tỷ lệ rất lớn trong dân số. Vì vậy, cần sự vào cuộc hỗ trợ của toàn xã hội để giúp công tác PBGDPL có nguồn lực tương ứng với nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra.
Bên cạnh đó, công tác PBGDPL không thể thoát ly khỏi vai trò, trách nhiệm lớn của truyền thông, báo chí. Vì vậy tôi hy vọng trong tương lai, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, của các phương tiện truyền thông đại chúng, công tác PBGDPL ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất hiệu quả, đáp ứng được mong muốn của người dân về pháp luật trong bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ và công bằng xã hội./.