In bài viết

Nói về tình trạng thiếu nước ở Tây Nguyên

17/03/2011 08:35

Ảnh minh họa-V.Phương.
Là nơi khởi nguồn của các hệ thống sông: Ba, Đồng Nai, Sê San, Sê Rê Pốk và mội số phụ lưu nhỏ của các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Hinh và Sê Bang Hiêng, Tây Nguyên có một lượng nước mặt khá phong phú: 49,87 tỷ m 3 /năm.
Nước nhiều nhưng Tây Nguyên vẫn khát
Mặc dù có tổng lượng nước khá phong phú nhưng có tới 70 - 80 % lượng nước này tập trung vào các tháng mùa mưa lũ, thường kéo dài từ tháng 5, tháng 6 đến tháng 10, tháng 11 hàng năm, thời gian còn lại là mùa cạn với lượng nước mặt chỉ chiếm khoảng 25 - 30%. Mỗi năm Tây Nguyên phải chịu khát từ 3 - 4 tháng. Vào những năm đặc biệt: Lượng mưa đạt thấp hơn trung bình, thời gian mùa mưa ngắn hơn bình thường thì thời gian khát còn dài hơn nhiều. Như trong mùa khô 2004 -2005 có trên 30% dân số trong vùng thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng (riêng tỉnh Đắk Nông có tới 240.000 người bằng 60% dân số thiếu nước sinh hoạt); trên 200.000 ha cây trồng thiếu nước tưới. Hàng trăm ngàn con gia súc bị đói, khát (tỉnh Gia Lai đã có 450 con trâu, bò chết). Mùa khô 2010 – 2011 này, con số thiệt hại cũng đang gia tăng và chưa có dấu hiệu dừng lại bởi nắng hạn hiện còn đang rất gay gắt và nhiều khả năng sẽ còn kéo dài.
Về lâu dài, nếu không có các biện pháp hiệu quả hơn thì tình trạng thiếu nước hàng năm tiếp tục diễn ra và có thể còn nghiêm trọng hơn. Lý do là: Thứ nhất, biến đổi khí hậu toàn cầu đang có những tác động tiêu cực tới Việt Nam. Theo các nhà khoa học Khí tượng Thủy văn, những năm gần đây thời tiết thủy văn ở Miền Trung Tây Nguyên có sự biến động khác thường, nhất là mưa. Tổng lượng mưa năm không có biến động lớn song một số yếu tố như cường độ mưa, lượng mưa trận hoặc lượng mưa ngày lớn nhất có xu thế tăng lên trong khi thời gian mùa mưa giảm xuống. Biến động này làm cho lũ lụt trở nên nguy hiểm hơn đồng thời khô hạn cũng khắc nhiệt hơn. Thứ hai là mức độ gia tăng dân số, đặc biệt là tăng dân số cơ học làm xáo trộn quy hoạch sản xuất và phát triển dân sinh của các địa phương đồng thời là một trong những nhân tố làm tăng mức độ giảm diện tích rừng. Thứ ba là nhu cầu nước cho sản xuất sẽ tiếp tục tăng theo đà phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tư là diện tích rừng và độ che phủ của rừng vẫn đang suy giảm làm cho làm giảm khả năng điều tiết tự nhiên.
Biện pháp nào giúp Tây Nguyên hóa giải cơn khát ?
Đối với tình trạng thiếu nước nghiêm trọng trong thời gian từ nay đến đầu mùa mưa năm 2011: Việc khắc phục sự thiếu hụt nước trầm trọng hiện nay cần có sự nỗ lực cố gắng chung của cả cộng đồng. Quản lý chặt chẽ, Tính toán sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ, huy động mọi nguồn lực để tập trung khai thác nguồn nước, đặc biệt là nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt và chăn nuôi; hỗ trợ nhân dân di chuyển đàn gia súc đến nơi gần nguồn nước. Việc khai thác các nguồn nước mặt hiện có (nước sông, hồ) cần có sự chỉ đạo đồng bộ, vì lợi ích chung của cả cộng đồng, ưu tiên cho sinh hoạt và chăn nuôi, tránh việc mạnh ai nấy làm để xảy ra trường hợp nơi thì dư giả, nơi không có lấy một giọt...
Về lâu dài:
Tây nguyên không thiếu nước, chỉ có điều lượng nước ấy phân phối quá chêng lệch trong một năm. Vậy có cách nào điều chỉnh lại sự phân phối tự nhiên ấy? Thiết nghĩ việc đầu tiên phải làm và làm thường xuyên là gìn giữ và tăng cường mầu xanh cho những cánh rừng. Đây là việc làm cần được quan tâm đặc biệt. Rừng là tài nguyên quý giá của đất nước, là nhân tố quan trọng bảo đảm cân bằng sinh thái trong vùng. Rừng có tác dụng to lớn trong việc điều tiết dòng chảy, chống rửa trôi, sói mòn, hoang hóa,vv. Hiện nay chưa có những nghiên cứu cụ thể về mối tương tác giữa rừng và dòng chảy cạn ở Tây Nguyên nhưng theo kết quả nghiên cứu ở một số nơi trong lãnh thổ nước ta của Giáo sư Nguyễn Viết Phổ và PTS Vũ văn Tuấn (trong tập: Đánh giá khai thác và bảo vệ tài nguyên khí hậu, tài nguyên nước của Việt Nam - Hà Nội 1994) thì: Khi tỷ lệ rừng giảm từ 27% xuống 3% (ở Ngòi Thia); 59% xuống 9% (Lai Châu); 12% xuống 3% (Nậm Mu) thì dòng chảy mùa cạn giảm từ 7 đến trên 15%. Cũng theo nghiên cứu trên, so sánh giữa lưu vực có độ che phủ của rừng lớn là Thác Riềng (Sông Cầu) 68% và lưu vực có độ che phủ của rừng nhỏ như Cẩm Đàn (Sông Lục Nam) 2% thì Mô Duyn dòng chảy nhỏ nhất chênh nhau hàng chục lần: (Mô Duyn dòng chảy nhỏ nhất tại Thác Riềng M minTR : 4,.3 - 15 l/s.km 2 còn ở Cẩm Đàn M minCĐ : 0,36 - 1,19 l/s.km 2 ). Rõ ràng việc tăng độ che phủ của rừng có một tác động rất quan trọng trong việc tạo và lưu giữ nước ngầm, giúp dòng chảy kiệt phong phú hơn, là điều kiện tốt để đáp ứng nhu cầu nước trong mùa khô. So với nhiều vùng khác trong cả nước thì Tây Nguyên hiện đang có tỷ lệ che phủ của rừng khá tốt: 55%. Tuy nhiên, rừng vẫn bị xâm hại, hơn thế nữa Tây nguyên cũng đang còn khoảng trên một triệu ha đất trống đồi núi trọc và nương dãy bỏ hoang nên biện pháp cấp thiết và lâu dài là phải tăng cường đầu tư cho công tác khoanh nuôi, bảo vệ và trồng mới phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Tăng cường mầu xanh cho những cánh rừng là tạo thêm nguồn nước cho mùa khô.
Song song với những nỗ lực nuôi trồng và bảo vệ rừng, những việc làm cấp thiết không thể thiếu khác là sự quy hoạch cho quá phát triển kinh tế - dân sinh một cách đồng bộ, hợp lý với tài nguyên thiên nhiên. Trước hết là việc kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển dân số. Tình trạng tăng dân số cơ học cần được kiểm soát chặt chẽ, không để tình trạng di dân xảy ra ngoài tầm kiển soát. Phải đảm bảo có sự phối hợp đầy đủ giữa chính quyền địa phương nơi có dân chuyển đi với chính quyền của địa phương nơi dân sẽ đến để chủ động bố trí đời sống và quy hoạch chỉ đạo sản xuất. Tiếp đến là việc xắp xếp bố trí quy hoạch sản xuất cho nhân dân. Cùng với việc hạn chế du canh, du cư và cấp đất cho các hộ đồng bào là việc hướng dẫn đồng bào trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với trình độ sản xuất, với tài nguyên thiên nhiên, trong đó đặc biệt quan tâm tới nguồn nước. Thứ ba là nâng cao hiệu quả điều tiết nhân tạo với những công tác chủ yếu là nâng cao năng lực trữ và cấp nước của các hồ chứa, các công trình thủy lợi hiện có đồng thời tiếp tục có sự đầu tư thỏa đáng để khảo sát và xây mới. Tây Nguyên có được mạng lưới sông suối khá dày, địa chất, địa hình không quá phức tạp cho việc xây dựng các hồ chứa. Nhưng vì là nơi đầu nguồn của các con sông, độ dốc lòng sông khá lớn, lượng nước tập trung nhiều ở mùa lũ và thời gian tập trung nước lũ vào trong sông khá ngắn (từ 3 - 6 tiếng đối với các sông nhỏ, từ 6 - 18 tiếng đối với các sông lớn và vừa) nên việc xây dựng các hồ chứa trên mỗi nhánh sông cần đảm bảo tính đồng bộ cho cả hệ thống sông và độ an toàn của công trình. Việc tự phát xây dựng các hồ chứa không theo quy hoạch sẽ dẫn đến hai nguy cơ lớn: Một là không đảm bảo an toàn trong mùa lũ, dễ bị mưa lũ làm vỡ tạo ra tổ hợp lũ gây nguy hiểm cho hạ du. Hai là trong mùa khô khi hồ đóng cửa thì phía hạ lưu hồ sẽ cạn kiệt gây ra tình trạng giải quyết được nước cho vùng này lại làm cho vùng khác mất nguồn nước. Và cuối cùng, Phòng bệnh hơn chữa bệnh: Công tác dự báo thời tiết thủy văn phục vụ cho sản xuất và đời sống là một trong những yếu tố quan trọng cho việc phòng chống thiên tai nói chung, phòng chống hạn và thiếu hụt nguồn nước nói riêng. Nó giúp cho chúng ta chủ động hơn trong việc đối phó với mọi tình huống diễn biến của thiên nhiên nên rất cần được nâng cao hơn cả về độ sát thực của các bản tin cũng như ý thức sử dụng bản tin. Trong khi các nhà chuyên môn tăng cường đầu tư con người và thiết bị để công tác đo đạc và dự báo đạt chất lượng cao hơn thì các nhà sử dụng bản tin cũng cần có các hình thức, phương pháp khai thác bản tin hiệu quả, phù hợp với từng lĩnh vực. Cần có mạng lưới thông tin hữu hiệu để mọi người dân đều có thể tiếp cận được các bản tin dự báo thời tiết thủy văn một cách nhanh chóng, chính xác từ đó có quyết định sản xuất và sinh hoạt phù hợp cho mình.
Tây Nguyên đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Nước là một trong những yếu tố không thể thiếu trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của mỗi người dân. Việc cùng nỗ lực cố gắng vì cộng đồng, vì sự phát triển chung sẽ giúp cơn khát hàng năm dần được hóa giải. Nguồn nước phong phú mà Tây Nguyên có sẽ phục vụ hữu ích cho sự phát triển Dân sinh - Kinh tế - Xã hội ở nơi này.
KS Nguyễn Văn Huy
Trung tâm KTTV tỉnh Kon Tum