Ông Ngọc thấy có trường hợp đã làm thủ tục và không nhận được tiền, khi liên hệ với xã mới được trả lời vì hộ kinh doanh có hoạt động nên không được hỗ trợ. Vậy, tại sao lại không có thông báo cho hộ kinh doanh về việc được hay không được trợ cấp?
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Trà Vinh trả lời vấn đề này như sau:
Tại Khoản 10 Mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 có quy định: “Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, có đăng ký thuế và phải dừng hoạt động từ 15 ngày liên tục trở lên trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến ngày 31/12/2021 theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19 được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần 3.000.000 đồng/hộ”.
Điều 37 Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 7/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 có quy định:
“1. Hộ kinh doanh gửi đề nghị hỗ trợ theo Mẫu số 11 tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này đến UBND cấp xã nơi có địa điểm kinh doanh. Thời hạn tiếp nhận hồ sơ chậm nhất đến hết ngày 31/1/2022.
2. Trong 3 ngày làm việc, UBND cấp xã xác nhận về việc tạm ngừng kinh doanh của hộ kinh doanh; niêm yết công khai; tổng hợp, báo cáo gửi Chi cục Thuế.
3. Trong 2 ngày làm việc, Chi cục Thuế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thẩm định, gửi UBND cấp huyện tổng hợp.
4. Trong 2 ngày làm việc, UBND cấp huyện rà soát, tổng hợp, trình UBND cấp tỉnh.
5. Trong 2 ngày làm việc, UBND cấp tỉnh ban hành Quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ; đồng thời chỉ đạo thực hiện hỗ trợ. Trường hợp không hỗ trợ, UBND cấp tỉnh thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
Căn cứ các quy định trên, nếu hộ ông Trần Ngọc đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên sẽ được hỗ trợ chính sách theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 của Chính phủ, nếu không đáp ứng đầy đủ một trong các điều kiện trên thì sẽ không được hỗ trợ chính sách theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và UBND cấp xã có trách nhiệm thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.