Dưới đây là toàn văn Báo cáo:
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Thủ đô Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu vô cùng quan trọng. Tuy nhiên Thành phố cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn như không gian phát triển bị hạn chế, giao thông đô thị quá tải, kết cấu hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, dân số cơ học tăng nhanh, thiếu nguồn lực đất đai để phát triển những công trình, dự án lớn… Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu cấp bách khách quan cho việc nghiên cứu mở rộng quy mô không gian, địa giới hành chính.
Nhằm phát huy và khai thác tối đa tiềm năng, đồng thời tạo điều kiện để giải quyết những hạn chế, bất cập, những mâu thuẫn mới phát sinh đang cản trở, làm chậm quá trình phát triển để xây dựng thành phố Hà Nội là Thủ đô, biểu trưng của quốc gia, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa - khoa học - đào tạo - kinh tế, trung tâm du lịch và giao dịch quốc tế, một đô thị hiện đại, năng động và hiệu quả có tầm khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Chính phủ đã tiến hành nghiên cứu đề án mở rộng địa giới hành chính Hà Nội theo tinh thần Kết luận hội nghị Trung ương 6 (khóa X) của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Sau khi xem xét đề nghị của Chính phủ, Quốc hội khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 ngày 29/5/2008 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Đây là mốc thời gian lịch sử của Hà Nội, tạo tiền đề để xây dựng và phát triển Thủ đô vươn tới vị thế mới, tầm cao mới, hướng tới mục tiêu văn hiến, văn minh, hiện đại, giàu bản sắc, xứng đáng là trái tim của cả nước. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, trong 5 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội đã phát huy truyền thống đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy lợi thế, vượt qua thách thức, triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội và đạt được nhiều thành tựu toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng và quản lý đô thị, củng cố an ninh quốc phòng, mở rộng hợp tác, hội nhập và phát triển, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của Thủ đô.
Một số kết quả chủ yếu sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Quốc hội về mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội như sau:
I. CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
1. Khái quát đặc điểm tình hình
Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội trên cơ sở hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã: Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.328,89 km2 - gấp 3 lần so Thành phố Hà Nội cũ, dân số khoảng 6.232.940 người, gồm 29 quận, huyện, thị xã và 577 xã, phường, thị trấn.
1.1. Thuận lợi cơ bản
- Sau mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội có quy mô về diện tích đất đai, dân số lao động lớn, tiền đề phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện xây dựng phát triển Thủ đô hiện đại, theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Hà Nội tiếp tục được sự quan tâm, lãnh đạo thường xuyên, trực tiếp của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ; sự phối hợp giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, của các nhà trí thức, nhà khoa học và sự ủng hộ, động viên to lớn của nhân dân cả nước.
- Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung giàu truyền thống cách mạng, có tinh thần đoàn kết; chủ động, sáng tạo, đổi mới; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao tạo nên sự đồng thuận, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội một cách nghiêm túc và hiệu quả.
1.2. Khó khăn, thách thức
- Quy mô diện tích, dân số, đơn vị hành chính tăng nhanh sẽ khó khăn trong việc tập trung lãnh đạo chỉ đạo công việc; tỷ trọng nông nghiệp tăng, tỷ lệ hộ nghèo còn lớn, đời sống của một bộ phận dân cư vùng xa trung tâm thành phố, vùng miền núi còn khó khăn, cơ sở vật chất về giao thông, thủy lợi, trường học, bệnh viện chưa đáp ứng yêu cầu…đòi hỏi sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nguồn lực đầu tư để giải quyết trong các năm tới.
- Việc hợp nhất toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Hà Nội, Hà Tây và các địa phương có liên quan với khối lượng công việc phải thực hiện rất lớn, nhiều nội dung phức tạp đan xen cần phải thực hiện như: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, các quy hoạch chi tiết xây dựng; hệ thống cơ chế chính sách khác nhau liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của tổ chức, thói quen cũ, mức sống của công dân các khu vực khác nhau cần thống nhất lại…
- Trước khi hợp nhất, các địa phương vừa hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ theo Nghị định số 13 và 14 của Chính phủ; sau hợp nhất số lượng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể và bộ máy hành chính các cấp có số lượng đông, chất lượng không đồng đều (hơn 100 ngàn người) tiếp tục phải tiến hành ngay việc bố trí, sắp xếp, phân công công tác, rà soát tổ chức cán bộ cho phù hợp với tình hình mới. Trụ sở làm việc của các cơ quan phân tán, không tập trung cần bố trí lại ảnh hưởng đến việc đi lại của cán bộ, công chức, viên chức và giải quyết công việc...
- Hà Nội phải đối mặt với khó khăn khách quan ngay sau khi hợp nhất như thiên tai, dịch bệnh; suy giảm kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư.
2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
Ngay khi có chủ trương mở rộng địa giới hành chính, các cơ quan đảng, chính quyền đã triển khai những công việc có tính cấp bách, đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước, các giao dịch và thủ tục hành chính diễn ra bình thường và có tiến bộ hơn trước.
2.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết
a. Quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể:
Ngay từ tháng 3/2008, BCH Đảng bộ thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Tây đã chủ động tổ chức Hội nghị quán triệt nội dung kết luận của Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng khóa X, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương mở rộng địa giới hành chính Thủ đô tới các cấp ủy và đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, đoàn thể Thành phố. Thực hiện kết luận của các hội nghị BCH Đảng bộ, HĐND thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Tây đã tổ chức kỳ họp bất thường, thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, với tỷ lệ 100% đại biểu dự họp nhất trí.
Ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 15, Thành ủy Hà Nội, và tỉnh Hà Tây đã tổ chức họp, quán triệt tới toàn thể đội ngũ cán bộ chủ chốt về ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng bàn kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, xác định những nội dung trọng tâm trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng bộ để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân; nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác tổ chức cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp xếp bộ máy khi tiến hành hợp nhất.
b. Ban hành chỉ thị, kế hoạch hướng dẫn tổ chức thực hiện Nghị quyết:
Căn cứ Thông báo số 163-TB/TW, Quyết định số 168/QĐ-TW ngày 23/6/2008 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 01/KH-BCĐTW của ban chỉ đạo Trung ương về sắp xếp tổ chức cán bộ của Hà Nội sau điều chỉnh địa giới hành chính và chỉ thị 260/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, Thành phố đã khẩn trương ban hành chỉ thị, kế hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết.
Thành ủy, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể Thành phố đã ban hành các chỉ thị hướng dẫn các đơn vị trong hệ thống thực hiện các nhiệm vụ để tổ chức thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội, chú trọng công tác rà soát, bố trí sắp xếp lại tổ chức bộ máy và cán bộ; quản lý tài sản, tài chính, con dấu và hồ sơ tài liệu; bố trí sắp xếp trụ sở, phương tiện làm việc…
c. Tích cực tuyên truyền tạo đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân Thủ đô và dư luận xã hội
Công tác quán triệt, phổ biến và tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết 15 được đặc biệt coi trọng, tổ chức nghiêm túc, hiệu quả đã tạo ra không khí phấn khởi, đồng thuận cao, đoàn kết trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thủ đô và dư luận xã hội.
Thành phố đã chủ động phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền hình của Trung ương và địa phương; sử dụng cổng giao tiếp điện tử của Thành phố và mạng lưới phát thanh, truyền hình, truyền thanh cơ sở để tuyên truyền chủ trương, mục đích, ý nghĩa, trách nhiệm và tầm quan trọng của việc mở rộng địa giới hành chính đến toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước.
Đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền, đưa tin về các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, quyết định của Thành phố trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các nội dung triển khai thực hiện Nghị quyết. Đưa tin về sự quan tâm, chăm lo kịp thời của chính quyền và nhân dân Thủ đô đối với nhân dân vùng bị thiên tai, dịch bệnh, nhân dân vùng xa trung tâm Thành phố và dân tộc thiểu số, các gia đình có công, bà mẹ Việt Nam anh hùng và các đối tượng chính sách, các hộ nghèo nhất là vào các dịp lễ tết sau hợp nhất.
Tuyên truyền, đưa tin về những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới của các địa phương; về tiềm năng, các giá trị văn hóa lịch sử truyền thống, văn hóa cách mạng; truyền thống lịch sử vẻ vang của nhân dân Thủ đô, tỉnh Hà Tây và các địa phương có liên quan. Từ đó, tạo không khí phấn khởi cho nhân dân ngay từ ngày đầu hợp nhất.
2.2. Tiếp nhận bàn giao và quản lý địa giới hành chính
Xuất phát từ thực tế và nguyện vọng của nhân dân địa phương, Thành phố đã trình Chính phủ và được chấp thuận ra Nghị quyết số 19/2009/NQ-CP về thành lập quận Hà Đông và thị xã Sơn Tây; đồng thời xác lập chính thức địa giới hành chính của huyện Mê Linh và 4 xã của tỉnh Hòa Bình bàn giao về Hà Nội theo Nghị quyết của Quốc hội.
Thành phố chủ động rà soát các điểm tranh chấp về địa giới hành chính, chưa thống nhất được ranh giới trên thực địa, chưa ký kết được hồ sơ địa chính của các đơn vị hành chính giữa Hà Nội với Hòa Bình, Hà Nam và Vĩnh Phúc; đồng thời chỉ đạo cơ quan chuyên môn chuẩn bị hồ sơ tài liệu để báo cáo Bộ Nội vụ, Chính phủ giải quyết theo quy định của pháp luật.
2.3. Công tác sắp xếp, tổ chức bộ máy và quản lý hành chính, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật
Trên nguyên tắc hợp nhất nguyên trạng, Thành phố quyết định hợp nhất, xác định lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan Đảng, Chính quyền, MTTQ và các tổ chức đoàn thể. Do quy định phân bổ biên chế đối với cấp huyện của các địa phương khác nhau, Thành phố xác định nguyên tắc không giao tăng biên chế cho các sở, ngành, nhưng giao bổ sung tăng biên chế cho cấp huyện thuộc tỉnh Hà Tây để thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới. Đồng thời, thực hiện theo đúng quan điểm chỉ đạo của Trung ương về công tác cán bộ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy yêu cầu công việc, lợi ích của người dân và chất lượng cán bộ là thước đo khi bố trí cán bộ, tránh tư tưởng cục bộ địa phương.
Thành phố chủ động phối hợp với Bộ Công an, chỉ đạo Công an Thành phố khẩn trương triển khai công tác cấp đổi con dấu, cấp đổi xác nhận, ưu tiên triển khai đối với các cơ quan đơn vị hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Việc quản lý nhân hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, biển số xe được thực hiện quản lý theo phương án linh hoạt và hiệu quả.
Ngay sau hợp nhất, toàn bộ các cơ quan Thành phố đã được bố trí sắp xếp trụ sở. Trụ sở của các cơ quan được bố trí tương đối hợp lý trên cơ sở tính chất công việc được giải quyết ngay, đảm bảo thuận lợi cho tổ chức và nhân dân trong các giao dịch hành chính.
Thành phố đã chỉ đạo các sở, ban, ngành và đơn vị có liên quan bố trí, sắp xếp phương tiện xe buýt đưa đón cán bộ, công chức, viên chức nhằm tạo điều kiện và đáp ứng nhu cầu đi lại đồng thời góp phần giảm thiểu lượng xe tham gia giao thông trên tuyến đường chính từ Hà Đông – Hà Nội và ngược lại.
Công tác cán bộ tiếp tục được kiện toàn. Đã thực hiện luân chuyển trên 130 lượt cán bộ thuộc diện Thành uỷ quản lý về làm bí thư, phó bí thư; giới thiệu để HĐND bầu chủ tịch, phó chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã. Cán bộ luân chuyển trở lại vị trí cũ và cán bộ điều động vị trí mới đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đã thi tuyển, xét tuyển 2.248 công chức hành chính, 2.189 công chức cấp xã, trên 22 nghìn viên chức các đơn vị sự nghiệp. Tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước, nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức, viên chức.
Thành phố đã chỉ đạo các ngành khẩn trương rà soát, phân loại các văn bản quy định do các địa phương trước khi hợp nhất ban hành để thay thế bằng văn bản quy định mới thống nhất trên toàn Thành phố, trong đó có kế thừa cơ chế chính sách cũ và từng bước thực hiện chính sách mới trên địa bàn Thành phố. Kết quả rà soát được 1.482 văn bản quy phạm (trong đó Hà Nội có 1.304, Hà Tây có 178) gồm: 80 nghị quyết, 1.262 quyết định, 140 Chỉ thị. Tính đến năm 2009, Thành phố đã ban hành 203 văn bản quy phạm pháp luật (trong đó có 170 quyết định và 33 chỉ thị, nghị quyết) trên các lĩnh vực để phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thủ đô trong tình hình mới, địa bàn mới.
2.4. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, triển khai xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển Thủ đô
Tập trung chỉ đạo khắc phục hậu quả trận lụt lớn cuối năm 2008, khắc phục hậu quả, hạn chế tối đa các thiệt hại do lũ lụt gây ra, tổ chức lại sản xuất, hỗ trợ và ổn định đời sông nhân dân vùng bị ngập lụt.
Lãnh đạo chỉ đạo xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, xây dựng đảng và hệ thống chính trị hàng năm sau mở rộng địa giới hành chính.
Đã tổ chức rà soát 642 đồ án, dự án, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai 329 đồ án, dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch Hà Nội mở rộng. Hoàn thành việc rà soát, đề xuất cho dừng, giãn và hoãn, chuyển đổi mục đích đầu tư các dự án không phù hợp quy hoạch.
Triển khai ngay vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và cơ chế chính sách phát triển Thủ đô:
- Ngay từ những ngày đầu hợp nhất, Thành phố đã phối hợp với các bộ, ngành Trung ương triển khai nghiên cứu, xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030”; “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; "Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050"; Quy hoạch sử dụng đất Thành phố đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015).
- Phối hợp với các cơ quan Trung ương nghiên cứu, xây dựng Luật Thủ đô và đã được Quốc hội thông qua.
- Tổ chức đánh giá thực hiện Nghị quyết 15-NQ/BCT của Bộ Chính trị và trình Bộ Chính trị ra Nghị quyết về phương hướng phát triển Thủ đô Hà Nội.
- Chuẩn bị chương trình, kế hoạch và tổ chức đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội nhằm tôn vinh khí phách anh hùng, truyền thống văn hiến của Thủ đô 1000 năm tuổi, góp phần nâng cao vị thế của Thủ đô, đất nước với nhân dân và bạn bè quốc tế.
II. KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐẠT ĐƯỢC SAU 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
1. Về phát triển kinh tế:
1.1. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, các ngành dịch vụ, công nghiệp xây dựng, nông- lâm - thủy sản phát triển toàn diện
Tăng trưởng GRDP giai đoạn 2008-2012 bình quân đạt 9,45%/năm. Trong đó, dịch vụ tăng 7,96%, công nghiệp - xây dựng tăng 9,32%, nông nghiệp tăng 0,4%. GRDP năm 2012 (theo giá cố định 1994) đạt 88.157 tỷ đồng, gấp 1,43 lần so năm 2008. Thu nhập tính theo GRDP theo đó tăng lên, bình quân đầu người năm 2012 đạt 2.257 USD/người, gấp 1,33 lần so năm 2008 (1.697 USD/người). Kinh tế của Thủ đô luôn đạt mức tăng gấp 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Nếu cơ cấu năm 2008 là: dịch vụ 52,1%; công nghiệp - xây dựng 41,4%; nông nghiệp 6,6%, thì năm 2012 cơ cấu các ngành tương ứng là: 52,6%; 41,8% và 5,6%.
Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, trình độ cao, chất lượng cao tiếp tục được phát triển. Ngành ngân hàng duy trì tốt việc huy động vốn đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, huy động vốn năm 2012 gấp 2 lần năm 2008, tăng trung bình hàng năm 18,3%, dư nợ cho vay cũng tăng tương ứng tăng 2,5 lần, trung bình hàng năm tăng 26,2%. Các dịch vụ ngân hàng tiếp tục được phát triển, đặc biệt là thanh toán điện tử liên ngân hàng, chuyển tiền điện tử, dịch vụ ngân hàng tự động, dịch vụ thẻ, đặc biệt là thẻ quốc tế Visa, Master, JCB và các điểm ATM, điểm chấp nhận thẻ thanh toán (POS) cũng tăng lên rất nhanh. Ngành thông tin truyền thông có bước phát triển nhanh, số cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2011 gấp 1,7 lần so năm 2008, doanh thu dịch vụ thông tin truyền thông tăng gấp 9 lần.
Lĩnh vực thương mại tiếp tục được chú trọng phát triển. Hạ tầng thương mại được đầu tư. Trong 5 năm đã hoàn thành đưa vào sử dụng 16 trung tâm thương mại, 81 siêu thị và 33 chợ các loại (đến nay, trên địa bàn có 25 trung tâm thương mại, 121 siêu thị và 414 chợ). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ duy trì tăng trưởng khá, trung bình hàng năm tăng 23%.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 10,5%/năm, trong đó, xuất khẩu địa phương tăng 13,3%/năm. Kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân 1,1%/năm. Kim ngạch nhập khẩu tăng thấp hơn xuất khẩu, nhập siêu được kiểm soát.
Hạ tầng du lịch được đầu tư phát triển. Trong 5 năm vừa qua đã hoàn thành đưa vào xây dựng khoảng 2.500 phòng khách sạn, với công suất sử dụng phòng duy trì ở mức khá cao (trên 60%). Hà Nội duy trì là điểm đến của khách du lịch và là trung tâm của khu vực đồng bằng sông Hồng. Số lượt khách du lịch Hà Nội hàng năm tăng 6,3%, trong đó, khách quốc tế chiếm 1,5% tổng lượng khách, khẳng định Hà Nội vẫn là nơi thu hút khách du lịch quốc tế lớn so với các thành phố trong khu vực.
Lĩnh vực công nghiệp được tiếp tục phát triển: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2012 gấp 1,62 lần với năm 2008, bình quân tăng trưởng giai đoạn 2008-2012 đạt 12,97%. Trên địa bàn Hà Nội có 08 khu công nghiệp đã và đang hoạt động diện tích trên 1.230 ha, tỷ lệ lấp đầy diện tích đạt 98%. Năm 2013 có thêm 02 khu công nghiệp mới đi vào hoạt động: Khu công viên Công nghệ thông tin Hà Nội có diện tích 36 ha thu hút các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và Khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội với diện tích giai đoạn I là 72 ha đã được khởi công xây dựng hạ tầng thu hút dự án đầu tư các ngành công nghiệp phụ trợ. Các khu công nghiệp mới với hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ là điểm hội tụ của các nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2013 và những năm tiếp theo. Đã đầu tư xây dựng 107 cụm công nghiệp với tổng diện tích 3.192 ha, tăng 5 cụm và tăng 2,8% về diện tích so với năm 2008. Các ngành công nghiệp chủ lực, mũi nhọn và các ngành có trình độ công nghệ cao tiếp tục được chú trọng phát triển, tập trung vào Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực (SPCNCL). Đến nay, số SPCNCL là 57 sản phẩm của 48 doanh nghiệp thuộc các ngành cơ khí - điện tử, hóa nhựa, dệt may - da giầy, chế biến lương thực, thực phẩm… Đến hết năm 2012, có 1.350 làng nghề và làng có nghề (bằng 59% tổng số làng).
Giai đoạn 2008-2012, ngành xây dựng tăng trưởng liên tục, giá trị tăng thêm đạt trung bình 10,57%/năm. Nhiều công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, công trình giao thông, khu đô thị, được đầu tư và đưa vào sử dụng, góp phần hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng các ngành sản xuất và dịch vụ. Tổng diện tích nhà ở xây mới tính đến hết tháng 6/2013 đạt 12,6 triệu m2. Nhiều khu đô thị mới hiện đại được đầu tư xây dựng: Ciputra, Linh Đàm, Việt Hưng...
Sản xuất nông nghiệp: Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản năm 2012 gấp 1,8 lần năm 2008. Năm 2012, giá trị sản xuất đạt 199 triệu/ha canh tác, cao gấp 1,63 lần năm 2008. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp tăng dần, đạt 51,54% năm 2012; trồng trọt, lâm nghiệp là 43,93%; dịch vụ nông nghiệp là 3,53%; năm 2008 cơ cấu tương ứng là 46,5%; 51,61% và 1,9%. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng hiệu quả; diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả đặc sản tiếp tục được mở rộng. Một số vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hoá tập trung với năng suất và giá trị thu nhập được hình thành: vùng sản xuất lúa chất lượng cao, vùng sản xuất rau an toàn, vùng trồng cam canh, bưởi diễn, vùng chăn nuôi gia cầm, bò thịt, bò sữa tập trung tại các huyện Đông Anh, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ba Vì, Thanh Trì, Mê Linh… Ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất được coi trọng. Hiện nay 100% giống lúa được cấp I hóa; 100% diện tích ngô được gieo trồng bằng giống lai; 75% là lợn ngoại và lợn hướng nạc; 70% đàn bò là lai sin...
1.2. Thu ngân sách trên địa bàn giai đoạn 2008-2012 liên tục đạt và vượt dự toán, bình quân hàng năm đạt 106.880 tỷ đồng, tăng trung bình 19,2%/năm. Năm 2012 thu ngân sách đạt 146.331 tỷ đồng gấp 2 lần năm 2008; Chi ngân sách địa phương trung bình đạt 57.117 tỷ đồng/năm, tăng bình quân 14,1%/năm, năm 2012 chi ngân sách gấp 1,7 lần so với năm 2008. Nhìn chung sau khi Thủ đô Hà Nội được mở rộng, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách nhưng kết quả thu, chi ngân sách luôn đảm bảo được dự toán Trung ương và HĐND Thành phố giao và đảm bảo được tự cân đối và nộp ngân sách Trung ương. Kết quả này đã góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô mở rộng và cả nước.
1.3. Huy động vốn đầu tư trên địa bàn được đẩy mạnh: Năm 2012 tổng vốn đầu tư xã hội đạt 232.659 tỷ gấp 1,87 lần so năm 2008. Trong đó vốn nhà nước tăng gấp 2,4 lần, vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,5 lần. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2008-2012 thu hút được 1.474 dự án với số vốn đăng ký 9.028 triệu USD, bằng 55% về số dự án và 41,7% về vốn đầu tư lũy kế từ thời điểm cho phép đầu tư nước ngoài đến nay. Trong thời gian từ 2008-2012, đã có hơn 80.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn khoảng 1.140 nghìn tỷ đồng.
1.4. Vai trò vị trí kinh tế Thủ đô đóng góp ngày càng lớn so với cả nước:
Năm 2012, với dân số chiếm 7,84%, Thành phố Hà Nội đã đóng góp 10,06% GDP, 9% kim ngạch xuất khẩu; 13,5% giá trị sản xuất công nghiệp; 23,5% vốn đầu tư phát triển, 19,73% thu ngân sách (trong đó, thu nội địa đóng góp 26,67%) và 23,5% tổng vốn đầu tư xã hội của cả nước. Kinh tế Thủ đô xứng đáng giữ vị trí đầu tầu và là động lực phát triển kinh tế khu vực phía Bắc và ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với kinh tế của cả nước.
2. Phát triển văn hóa – xã hội
2.1. Về văn hóa thể thao:
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, các mô hình gia đình văn hoá, làng thôn bản văn hoá, tổ dân phố và đơn vị văn hoá tiếp tục phát huy vai trò tích cực. Năm 2010, Thành phố Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, tạo ấn tượng tốt trong nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của Thăng Long - Hà Nội qua 1.000 năm lịch sử văn hiến - anh hùng - hoà bình và hữu nghị được tôn vinh. Nhiều công trình văn hóa, thể thao lớn đã hoàn thành kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội: Bảo tàng Hà Nội, Thư viện Hà Nội, Rạp Đại Nam, Cung thi đấu án thể thao trong nhà,…
Công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội, đặc biệt là các di sản văn hoá được triển khai tích cực. Nhiều giá trị văn hoá đã được phục dựng, tôn tạo và đưa vào khai thác. Một số di sản đã được công nhận là di sản văn hoá thế giới, di sản văn hoá quốc gia. Đã được UNESCO công nhận: Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa, Hội Dóng ở đền Phù Đổng và đền Sóc là di sản văn hóa phi vật thể thế giới. Văn Miếu - Quốc Tử Giám được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, 82 bia đá các khoa thi tiến sỹ thời kỳ Lê Mạc được công nhận là di sản tư liệu văn hoá thế giới. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và những phong tục tập quán tốt đẹp của văn hoá Tràng An, văn hoá xứ Đoài ngày càng được phát huy.
Trong hoạt động thể thao thành tích cao, Hà Nội tiếp tục gặt gái nhiều thành công. Đã tổ chức thành công Indoor Games với quy mô lớn và đạt được nhiều giải thưởng cao. Thành phố đang chuẩn bị các điều kiện để hướng tới ASIAD 18 tổ chức tại Hà Nội năm 2019. Nhiều hoạt động thể thao quần chúng, dân gian, thể thao truyền thống gắn với các lễ hội diễn ra sôi nổi và rộng khắp.
2.2. Giáo dục đào tạo:
Giáo dục và đào tạo được chú trọng đầu tư, chất lượng được giữ vững: Các quy hoạch chủ yếu phát triển ngành giáo dục – đào tạo đã được phê duyệt. Cơ sở vật chất trường học, nhất là thuộc địa bàn mở rộng được quan tâm đầu tư. Đã hoàn thành xóa phòng học tạm, phòng học cấp 4 nguy hiểm, xây dựng hệ thống nhà vệ sinh, cải tạo hệ thống điện cho các trường học. Trong 5 năm qua, đã xây mới, thay thế 5.523 phòng học tạm, cấp 4 xuống cấp; 1.108 phòng học văn hóa, 1.071 phòng học bộ môn. Đã tập trung đầu tư nhiều công trình trọng điểm như: Trường chuyên Hà Nội - Amsterdam; trường THPT chuyên Nguyễn Huệ; trường Trung cấp đa ngành Sóc Sơn tại huyện Sóc Sơn. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng đáng kể. Tính đến tháng 6/2013, tăng 339 trường so với năm 2008, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 768 trường, đạt tỷ lệ 32,1%.
Hà Nội có quy mô lớn hàng đầu cả nước, đi đầu trong phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Số trẻ 5 tuổi đến trường đạt 99,6%; 100% trẻ được học 2 buổi/ngày; 500/687 trường tiểu học tổ chức học 2 buổi/ngày; 100% xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 83% số đối tượng trong độ tuổi hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học; 100% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó, trên chuẩn đạt 42%; 100% các trường được kết nối mạng Internet; giáo viên có trình độ tin học đạt 65%. Hà Nội duy trì dẫn đầu cả nước trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia tổ chức hàng năm và đóng góp nhiều giải thưởng quốc tế.
2.3. Khoa học – công nghệ:
Các hoạt động khoa học - công nghệ tiếp tục được chú trọng phát triển. Giai đoạn 2008- 2013, đã thẩm định công nghệ 162 hồ sơ dự án đầu tư trong các lĩnh vực: xử lý chất thải, hiện đại hoá các cơ sở y tế, các dây chuyền chế biến thực phẩm. Đã cấp giấy chứng nhận đăng ký 16 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trợ giúp kỹ thuật; cấp mới giấy chứng nhận hoạt động khoa học – công nghệ cho 136 tổ chức; đồng thời, giúp các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp và địa phương xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm truyền thống nhằm nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. Trong 5 năm, đã tổ chức hướng dẫn, tư vấn xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho trên 230 tổ chức và cá nhân trên địa bàn. Hỗ trợ tích cực trong việc áp dụng tiêu chuẩn ISO. Đến nay đã có 112 cơ quan hành chính nhà nước được cấp Giấy chứng nhận quản lý chất lượng phù hợp TCVN ISO 9001:2000, khoảng 40 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh được hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến ISO 14.000 và 22.000. Khoa học và Công nghệ thực sự trở thành đòn bẩy, động lực, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
2.4. Y tế:
Lĩnh vực y tế tiếp tục được quan tâm: Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt. Hệ thống y tế cơ sở không ngừng được củng cố, hoàn thiện cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Giai đoạn 2009-2013, đã đầu tư 3.186 tỷ đồng nâng cấp, mở rộng các bệnh viện, trung tâm y tế, trạm y tế xã/phường, trong đó, đặc biệt ưu tiên các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 294 tỷ đồng để trang bị thiết bị cho tuyến y tế cơ sở đảm bảo Chuẩn quốc gia về y tế. Đến nay, 126 dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, bổ sung 1.090 giường bệnh, nâng cấp 1.050 giường bệnh. Đã có thêm 133 xã/phường được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, nâng số xã/phường đạt chuẩn nâng lên 570, đạt tỷ lệ 98,8% (năm 2008 đạt 76%). Tỷ lệ trạm y tế có bác sỹ tăng từ 86% năm 2008 lên 90% năm 2012. Chất lượng y tế cộng đồng và chăm sóc sức khoẻ nhân dân tăng lên. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 12,3‰ (năm 2008 là 12,7‰); tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 7,5% (năm 2008 là 8,9%); trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 10,5% (2008 là 15%). Tỷ lệ bác sỹ/10.000 dân tăng từ 9,7 lên 11,2; số giường bệnh/1 vạn dân tăng từ 12 lên 15. Công tác khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn có nhiều chuyển biến rõ nét. Chất lượng điều trị, chăm sóc, phục vụ người bệnh được nâng cao, đặc biệt đối với hệ thống bệnh viện tuyến huyện. Các bệnh viện tuyến Thành phố không ngừng học hỏi triển khai một số kỹ thuật mới[1].
2.5. An sinh xã hội:
An sinh xã hội được đặc biệt quan tâm. Thành phố đã phát động phong trào “Đền ơn đáp nghĩa" đối với các gia đình cách mạng và thân nhân. Giai đoạn 2008-2012, ngân sách đã hỗ trợ xây, sửa 3.296 nhà ở với kinh phí 100 tỷ đồng (trong đó, xây mới 1.133 nhà, sửa chữa 2.163 nhà); vận động Quỹ "Đền ơn đáp nghĩa" 126 tỷ đồng và thực hiện xã hội hóa "Đền ơn đáp nghĩa" giai đoạn 2008-2012 là 547 tỷ đồng; tặng 27.175 sổ tiết kiệm "Tình nghĩa" kinh phí 19,9 tỷ đồng; tu sửa nâng cấp 474 công trình ghi công liệt sĩ kinh phí 301 tỷ đồng; tổ chức điều dưỡng 136.383 lượt người có công với cách mạng.
Thành phố tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm, thực hiện Kế hoạch xã hội hoá dạy nghề giai đoạn 2008 – 2010, Kế hoạch “Dạy nghề cho lao động nông thôn thành phố Hà Nội đến năm 2020”, Đề án phát triển thị trường lao động đến năm 2020, Chương trình giải quyết việc làm Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2015,... Bình quân mỗi năm giai đoạn 2008-2012, vay giải quyết việc làm thông qua Quỹ quốc gia giải quyết việc làm 273 tỷ đồng, giải quyết cho trên 23 nghìn lao động. Trung bình, giải quyết việc làm cho trên 133 nghìn lượt lao động/năm.
Kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo thành phố giai đoạn 2011-2015 được triển khai tích cực. Trung bình hàng năm, hỗ trợ trên 20.000 hộ thoát nghèo, đồng thời, thường xuyên nâng chuẩn nghèo và các mức hỗ trợ. Giai đoạn 2008-2012, tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm 1,5-2%, đến cuối năm 2012 còn 3,55% với 59.365 hộ. Năm 2013, ước thực hiện hỗ trợ 16.500 hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo còn 2,35%. Chuẩn nghèo và một số mức trợ cấp cho đối tượng bảo trợ xã hội được nâng lên và cao hơn mức chung toàn quốc.
2.6. Công tác dân tộc, tôn giáo:
Thành phố đã ban hành và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi giai đoạn 2009 – 2012, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2013 – 2015. Tổng số có 186 dự án, công trình đầu tư, triển khai trên địa bàn 13 xã và 01 thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, tập trung chủ yếu các lĩnh vực: cấp nước, cấp điện, thuỷ lợi, giao thông nông thôn, giáo dục, y tế, văn hoá thể thao. Tổng kinh phí dự kiến đầu tư là 2.012 tỷ đồng, năm 2013 đã phân bổ 163 tỷ đồng cho 40 dự án.
3. Công tác xây dựng chiến lược và lập quy hoạch được chú trọng, kết cấu hạ tầng kỹ thuật được tập trung đầu tư xây dựng, quản lý đô thị, bảo vệ môi trường được tăng cường, bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng đổi mới
3.1. Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, xây dựng cơ chế chính sách phát triển Thủ đô:
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đã được Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt.
Các quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, quy hoạch kinh tế - xã hội huyện, thị xã đã được triển khai lập, thẩm định và trình phê duyệt. Đến nay, tất cả quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các huyện, thị xã đã hoàn thành phê duyệt; quy hoạch ngành lĩnh vực cơ bản đã hoàn thành và được phê duyệt. Các đồ án quy hoạch chung xây dựng huyện, thị trấn sinh thái, đô thị vệ tinh; 28 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Đã tổ chức thẩm định 18/32 đồ án quy hoạch chung xây dựng, dự kiến sẽ phê duyệt trong quý III-IV/2013. Đã phê duyệt 10/31 quy hoạch phân khu, 07 đồ án phân khu khác đang xem xét. 27 quận, huyện, thị xã thực hiện lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.
Luật Thủ đô đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013; các quy hoạch và chiến lược đã được Chính phủ thông qua và Thành phố đang triển khai thực hiện. Thành phố đã tích cực chỉ đạo xây dựng cụ thể hóa các cơ chế, chính sách được quy định tại Luật Thủ đô. Đến nay, Thành phố đã cụ thể hóa và ban hành 11 cơ chế, chính sách quy định tại Luật Thủ đô triển khai thực hiện trên địa bàn.
3.2. Kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị được tập trung đầu tư:
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là các công trình giao thông trọng điểm được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Đã hoàn thành nhiều công trình giao thông trọng điểm, đặc biệt là các công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội: đường Láng – Hòa Lạc, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, đường vành đai 3 trên cao... Các công trình giao thông trọng điểm được đẩy nhanh tiến độ: đường vành đai 1 (Ô Chợ Dừa – Hoàng Cầu), Quốc lộ 32, đoạn Cầu Diễn - Bưởi, Quốc lộ 1A đoạn Văn Điển - Ngọc Hồi... Thành phố đang tích cực chỉ đạo thực hiện Kế hoạch xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, các dự án đầu tư trong điểm trên địa bàn đang đầu tư xây dựng như: đường vành đai 2 Nhật Tân - Cầu giấy, Đường 5 kéo dài, Cầu Nhật Tân, Cầu Vĩnh Thịnh, Đường Quốc lộ 3 Hà Nội - Thái Nguyên, đường cao tốc: Hà Nội - Lào Cai, Nhật Tân - Nội Bài, nhà ga Hàng không T2 Nội Bài; 3 tuyến đường xe điện đô thị…
Hệ thống cấp thoát nước được quan tâm đầu tư, các công trình cấp nước được đầu tư mở rộng, từng bước xây dựng hệ thống mạng cấp nước trong các khu đô thị và vùng ven nội. Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải được tăng cường, hoàn thành dự án thoát nước giai đoạn 1, đang triển khai thực hiện giai đoạn 2; hệ thống xử lý nước thải Yên sở, Hồ Tây được tập trung đầu tư.
Triển khai tích cực các khu xử lý rác chất thải rắn như Nam Sơn, Bắc Sơn, Sơn Tây, Chương Mỹ, Đan Phượng…
3.3. Công tác quản lý giao thông, trật tự xây dựng được tăng cường:
Thực hiện tốt việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị. Vấn đề ùn tắc giao thông đã cơ bản được khắc phục. Năng lực và chất lượng vận tải hành khách công cộng được nâng cao. Tai nạn giao thông hàng năm đều giảm ở cả số vụ tai nạn và số người bị chết, bị thương.
Công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị được quan tâm thực hiện. Công tác chấn chỉnh kỷ cương trong quản lý trật tự xây dựng đô thị được triển khai quyết liệt, đồng bộ, có chuyển biến tích cực. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm sau cấp phép xây dựng tiếp tục được chú trọng, trật tự, kỷ cương xây dựng từng bước đi vào nền nếp. Tỷ lệ công trình xây dựng có giấy phép tăng dần qua từng năm, đến nay đạt trên 90%. Công tác chỉnh trang đô thị, chiếu sáng kiến trúc các công trình giao thông, các khu dân cư được duy trì. Vi phạm trật tự đô thị tiếp tục được xử lý nghiêm.
Công tác chỉnh trang, nâng cấp đô thị được triển khai đồng bộ. Nhiều vườn hoa, công viên được cải tạo, xây mới. Các công trình được xây mới: Công viên Hoà Bình, Yên Sở; Vườn hoa 01/6 (Nguyễn Lương Bằng), Hàng Trống (42 Nhà Chung), Cổ Tân…; cải tạo, chỉnh trang công viên Thống Nhất, công viên Thủ Lệ, công viên Lê Nin, vườn hoa Lý Tự Trọng... Hoàn thành cải tạo một số hồ tại nội đô và có 12 hồ đang được triển khai xây dựng, cải tạo. Nhiều tuyến phố được chỉnh trang hạ tầng kỹ thuật đồng bộ; việc sắp xếp, hạ ngầm các tuyến đường dây, cáp nổi trên nhiều tuyến đường nội đô được triển khai tích cực.
Các dịch vụ đô thị như cấp nước sạch, thu gom vận chuyển rác…được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.
Thành phố thường xuyên cập nhật, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách về quản lý tài nguyên, đất đai và xử lý các vi phạm. Tích cực thực hiện thanh tra, kiểm tra các dự án đã được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nhưng chậm triển khai. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được đẩy mạnh, đến nay tỷ lệ đạt trên 95% số thửa đất đủ điều kiện và đã kê khai xin cấp.
3.4. Các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới, nhà ở xã hội được triển khai mạnh
Đã và đang xây dựng thêm 370 dự án trung tâm thương mại, siêu thị lớn, văn phòng cao cấp, khách sạn hiện đại... với 17.765 ha, 520.700 căn hộ, 82,45 triệu m2, góp phần đáp ứng nhu cầu của nhân dân, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Xây dựng nhà ở xã hội, cải tạo chung cư cũ, xuống cấp được chú trọng và đạt kết quả bước đầu. Đã hoàn thành khu nhà ở công nhân tại khu Kim Chung (Đông Anh), Việt Hưng (Long Biên), khu nhà ở xã hội tại Đại Mỗ, Hà Đông. Triển khai 10 dự án nhà ở, ký túc xá cho khoảng 43.500 học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo khu đô thị mới Pháp Vân, Tứ Hiệp và khu đô thị mới Mỹ Đình II. Giai đoạn 2008-2012, diện tích nhà ở tăng thêm khoảng 15 triệu m2, bình quân 2-2,5 triệu m2/năm. Diện tích nhà ở bình quân năm 2012 đạt 21,5m2/người. Thành phố đang thực hiện Chiến lược Phát triển nhà ở đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
3.5 Kết cấu hạ tầng nông thôn được đặc biệt quan tâm, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu quan trọng, bộ mặt nông thôn đổi mới một cách rõ rệt
Thành phố đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn: Ngân sách đầu tư cho các huyện ngoại thành được tăng cường, kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, trường học, bệnh viện, trạm y tế được đầu tư theo hướng chuẩn hóa. Giai đoạn 2008-2012 ngân sách cho đầu tư phát triển cấp huyện 2.303 tỷ, bình quân 461 tỷ/năm gấp 1,5 lần so năm 2008.
Kết cấu hạ tầng cho khu vực nông thôn đã có bước phát triển nhanh. Trong 5 năm, đã cải tạo, xây mới hơn 4.000km đường giao thông trên địa bàn các huyện. Hoàn thành xóa phòng học tạm, phòng học cấp 4; 100 % số xã có đường ô tô đến trụ sở xã; công trình nhà văn hoá, sân vận động thể thao ở nhiều nơi được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp. Tỷ lệ xã, thôn được thu gom rác thải đạt 98% (trước hợp nhất là 72%). 100% số xã có điện lưới quốc gia, đặc biệt 13 xã chưa có điện đã được cấp điện ngay trong năm đầu hợp nhất. Đời sống nông dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Thu nhập trung bình của dân cư năm 2012 đạt 2,85 triệu đồng/người/tháng, cao gấp 2,2 lần năm 2008; trong đó, khu vực thành thị đạt 4,1 triệu đồng/người/tháng, khu vực nông thôn đạt 1,98 triệu đồng/người/tháng. Nông thôn không còn nhà dột nát, đa số các hộ gia đình có nhà kiên cố, khang trang. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt trên 86%; tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt 42%. Trên 90% số hộ gia đình có vô tuyến truyền hình; trên 95% số xã và 30% số thôn có máy tính kết nối Internet; 70% số hộ có điện thoại.
Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) đạt được kết quả bước đầu quan trọng: Đã có 100% huyện, thị xã lập xong đề án cấp huyện. Tất cả các xã đã hoàn thành phê duyệt đề án và 400/401 xã đã hoàn thành quy hoạch xã NTM. Đến hết tháng 6/2013, có 236/401 xã đạt và cơ bản đạt 10-19 tiêu chí, trong đó, 27 xã đạt và cơ bản đạt 19/19 tiêu chí; 91 xã đạt và cơ bản đạt từ 14-18 tiêu chí; 133 xã đạt và cơ bản đạt từ 10-13 tiêu chí. Dự kiến đến hết năm 2013, có 62 xã đạt tiêu chí NTM. Công tác dồn điền đổi thửa được triển khai có hiệu quả đến nay đã thực hiện được 35.178 ha bằng 45,3% tổng diện tích có khả năng dồn điền đổi thửa và 18,7% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
4. Tình hình chính trị ổn định, an ninh, quốc phòng được củng cố, tăng cường
Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được tập trung chỉ đạo ngay từ những ngày đầu hợp nhất, không để xảy ra các tình huống đột xuất, bất ngờ. Đã triển khai nhiều kế hoạch chuyên đề và các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, nhất là trong các dịp kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Đại hội Đảng các cấp, bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, các hội nghị quốc tế lớn, các ngày lễ, tết… Đã xử lý, giải quyết kịp thời các tình huống phức tạp về tôn giáo, các vụ tập trung đông người trái phép, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên địa bàn các quận, huyện.
Đã tổ chức các tổ công tác 141 để trấn áp tội phạm, duy trì trật tự, an toàn xã hội. Kết quả rất đáng ghi nhận, được nhân dân hoan nghênh. Phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm hình sự, kinh tế, ma túy, tệ nạn xã hội. Xử lý nghiêm các vi phạm về môi trường, vi phạm về kinh doanh, sản xuất nguyên liệu, hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm,... Kịp thời nhận diện, phát hiện, đấu tranh xử lý các loại tội phạm mới, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao,… Hiệu quả điều tra, khám phá các vụ án hình sự, kinh tế, ma túy và môi trường được nâng cao, đặc biệt khám phá nhanh các vụ án nghiêm trọng. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quan tâm nhiều đến an ninh nông thôn.
Công tác quốc phòng, quân sự địa phương tiếp tục được duy trì. Hàng năm hoàn thành chỉ tiêu giao quân, đảm bảo số lượng và chất lượng. Duy trì kiểm tra việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác giáo dục quốc phòng – an ninh, công tác quân sự của các trường trên địa bàn. Chỉ đạo đăng ký nghĩa vụ quân sự, đăng ký bổ sung nam công dân trong độ tuổi gọi nhập ngũ, đăng ký bổ sung quân nhân dự bị, dân quân tự vệ,... Tổ chức ra quân huấn luyện hàng năm và tập huấn cán bộ các cấp; công tác giáo dục chính trị, phổ biến kiến thức pháp luật nâng cao nhận thức cho cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang Thủ đô;.... Tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 119/NĐ-CP và Chỉ thị 36/CT-TTg về công tác quốc phòng tại các cơ quan, đơn vị, địa phương; 10 năm công tác quốc phòng, an ninh ở cả 3 cấp; 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, 10 năm thực hiện công tác đào tạo cán bộ quân sự Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn (2003-2013) và 5 năm công tác quốc phòng, quân sự địa phương (2008-2013), sơ kết 5 năm “Xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ”.
Đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ được đẩy mạnh. Duy trì tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp quận, huyện, diễn tập chiến đấu trị an xã, phường, thị trấn hàng năm. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Ban chỉ đạo cứu hộ, cứu nạn được thành lập, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống bất ngờ.
5. Công tác đối ngoại và hợp tác phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng
Thành phố đã tích cực, chủ động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác trong lĩnh vực văn hoá, xã hội với Thủ đô các nước và các tổ chức quốc tế, nhất là trong dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đã ban hành các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động để kinh tế Thủ đô phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Tích cực phối hợp các cơ quan Trung ương mở rộng hợp tác các Thủ đô trên thế giới; Hà Nội đã thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với gần 100 Thủ đô, thành phố của 50 nước và vùng lãnh thổ, trong đó thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu quả với 35 Thủ đô, thành phố gồm các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước châu Âu, Mỹ,…duy trì mối quan hệ thân thiết với hai nước bạn Lào, Campuchia. Thủ đô Hà Nội là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế lớn, quan trọng như Hiệp hội các thành phố lớn trên thế giới, mạng lưới các thành phố lớn châu Á thế kỷ 21 (ANMC21), mạng lưới chính quyền địa phương Citynet,…Thành phố đã tích cực liên kết hợp tác, hỗ trợ phát triển các dự án đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội tại các tỉnh, thành phố bạn trong cả nước. Thực hiện tích cực các nội dung hợp tác vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng. Vị thế và vai trò của Thủ đô với các địa phương cả nước và với các nước trong khu vực và trên thế giới được nâng lên đáng kể. Hà Nội là một trong ba địa phương đứng đầu cả nước về năng lực hội nhập kinh tế quốc tế[2].
6. Hệ thống chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp tiếp tục được củng cố kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng cao
Hoạt động của HĐND các cấp ngày càng phát huy dân chủ, chất lượng, hiệu quả. Dân chủ trong các kỳ họp, tiếp xúc cử tri được phát huy tích cực. Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Nghị quyết của HĐND được tiến hành đồng bộ, có chất lượng, phù hợp yêu cầu thực tiễn và đem lại hiệu quả thiết thực. Công tác giám sát được coi trọng và thực hiện bài bản thông qua giám sát tại kỳ họp, giám sát theo chương trình hàng năm, tập trung vào việc thực hiện chủ trương đường lối, chính sách của Nhà nước, nhiệm vụ trọng tâm theo nghị quyết HĐND, những lĩnh vực, vấn đề bức xúc được xã hội, cử tri quan tâm.
Công tác chỉ đạo, điều hành quản lý của UBND các cấp quyết liệt, sâu sát, cụ thể, có hiệu quả và tiến bộ hơn. Thực hiện quyết liệt công tác phân cấp quản lý kinh tế xã hội, cải cách hành chính được xác định là khâu đột phá và chỉ đạo quyết liệt, đã xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thực hiện thống nhất trên địa bàn Thành phố. Hàng năm, rà soát các thủ tục hành chính, đã ban hành bộ thủ tục hành chính của Thành phố để thống nhất thực hiện. Thực hiện giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông có chuyển biến tích cực. Công tác thanh tra, kiểm tra công vụ được tăng cường, kỷ cương hành chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tăng lên. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân được tăng cường hơn. Công tác cải cách tư pháp được quan tâm chỉ đạo, quan tâm cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp, hệ thống trụ sở UBND cấp xã.
Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân đã có nhiều đổi mới theo hướng đa dạng, gần dân, thiết thực, nâng cao vai trò giám sát và phản biện xã hội; tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp.
Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm được tập trung chỉ đạo.
Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, gắn với triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được tổ chức thực hiện đồng bộ và thu được những kết quả quan trọng. Thực hiện tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, bước đầu có hiệu quả và chuyển biến nhanh cả nhận thức lẫn hành động thực tế. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt việc sắp xếp, rà soát cán bộ sau hợp nhất, công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ lãnh đạo được thực hiện có kế hoạch, bài bản, có hiệu quả. Công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên được đẩy mạnh. Tích cực kiểm tra, rà soát, đánh giá và kiện toàn củng cố tổ chức cơ sở Đảng tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước; công tác kiểm tra giám sát được tăng cường, công tác dân vận được quan tâm chỉ đạo và có chuyển biến tích cực. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng được tiếp tục đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ, kỷ cương sát cơ sở, chỉ đạo tập trung, kiên quyết, dứt điểm, hiệu quả.
Thành phố đã chủ động xây dựng và phát động nhiều phong trào thi đua thiết thực được các tầng lớp cán bộ, đảng viên, các tầng lớp công nhân, lao động, doanh nhân, trí thức Thủ đô đồng tình hưởng ứng, các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh bạn đánh giá cao. Các phong trào thi đua "Người tốt, việc tốt" gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" lan tỏa trong tất cả tầng lớp dân cư thành phố; phong trào thi đua "Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới" được triển khai, nhân rộng với nhiều hình thức đa dạng phong phú; phong trào thi đua đạt danh hiệu "Nhà doanh nghiệp Hà Nội giỏi", "Cúp Thăng Long", "Sáng kiến, sáng tạo", "Công nhân giỏi Thủ đô" đã thu hút đông đảo các cấp, các ngành tham gia và có bước phát triển mạnh mẽ, sâu rộng đến hầu hết các loại hình doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố.
III. TỒN TẠI HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân:
a. Tồn tại hạn chế:
- Kinh tế Thủ đô tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn còn bộc lộ những yếu tố thiếu bền vững; thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước chưa xứng với tiềm năng, lợi thế; tình trạng đầu tư công còn dàn trải, nhiều dự án trọng điểm triển khai chậm. Đầu tư lĩnh vực đô thị, nhà ở phát triển nóng dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu, thị trường bất động sản đóng băng.
- Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý đất đai có những chuyển biến tiến bộ song vẫn còn hạn chế. Tình trạng quản lý trật tự giao thông, vệ sinh môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
- Lĩnh vực văn hóa xã hội có một số bất cập, kết quả xây dựng văn hoá người Hà Nội thanh lịch, văn minh chưa đạt kết quả như mong muốn; tình trạng quá tải trong các bệnh viện chưa được khắc phục; lao động việc làm, đời sống nhân dân vùng xa trung tâm Thành phố còn khó khăn, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn chưa thu hẹp được nhiều.
- Cải cách hành chính đã đạt được những kết quả ban đầu song còn một số mặt hạn chế: thủ tục hành chính chưa thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của một bộ phận công chức có hạn chế, năng lực một bộ phận cán bộ trong cơ quan công quyền chưa đáp ứng được yêu cầu.
- An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định; tình hình giải quyết đơn thư khiếu nại, khiếu tố và khiếu kiện đông người trên địa bàn tuy có sự chuyển biến nhưng diễn biến phức tạp ở một số nơi.
- Công tác quản lý văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, đào tạo nghề tuy có nhiều cố gắng song tình trạng dịch bệnh, chất lượng đào tạo, công tác thông tin tuyên truyền, xây dựng đời sống văn hóa mới còn bộc lộ một số bất cập.
b. Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan: Khối lượng công việc phải giải quyết trên địa bàn Thủ đô sau hợp nhất rất lớn, trong khi đó cơ chế chính sách có nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, sự phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương có việc chưa đồng bộ, chưa sâu sát, sự chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế, xã hội giữa các địa phương, nhất là các đơn vị vùng xa trung tâm Thành phố, thuần túy phát triển nông nghiệp, dẫn đến vừa phải cân đối nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế các địa phương, vừa phải tập trung trọng tâm trọng điểm, trong khi nguồn lực có hạn. Tác động xấu, trực tiếp của suy thoái kinh tế toàn cầu; lạm phát, suy giảm kinh tế trong nước, ảnh hưởng của thiên tai ngập lụt cuối năm 2008, rét đậm một số năm kéo dài, diễn biến dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của Thành phố trên một số lĩnh vực chưa quyết liệt, chưa sâu sát. Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở một số địa phương, sở, ngành còn thiếu năng động, chưa theo kịp yêu cầu chỉ đạo của Thành phố. Sự phối hợp giữa ngành và cấp có việc chưa đồng bộ. Công tác kiểm tra, giám sát của nhiều đơn vị thực hiện còn chưa thường xuyên; phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Nghị Quyết
- Nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu xây dựng Thủ đô hiện đại văn minh với nguồn lực hạn chế, các dự án trọng điểm phát triển giao thông đô thị như hệ thống đường sắt đô thị, các đường vành đai, trục giao thông hướng tâm, hệ thống vận tải công cộng cần phải hoàn thành sớm, nhanh nhưng nguồn vốn có hạn, khả năng tổ chức thực hiện hạn chế, đòi hỏi phải có giải pháp quyết liệt, tập trung nguồn lực của Thành phố, hỗ trợ nhiều hơn của Trung ương cả về năng lực nguồn vốn và tổ chức thực hiện.
- Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường mang lại nhiều bức xúc đối với nhân dân Thủ đô, không chỉ ở khu vực nội thành mà còn ở cả địa bàn các huyện ngoại thành. Việc quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm còn bất cập, lượng chất thải gia tăng, ô nhiễm không khí, nguồn nước, tiếng ồn… đang là thách thức không nhỏ đối với Thủ đô.
- Dân số cơ học tăng nhanh, trong vòng 5 năm trở lại đây dân số Thủ đô đã tăng khoảng 60 vạn người, trong đó tăng dân số cơ học lên tới 5 vạn người/năm, chủ yếu thuộc các đối tượng trong độ tuổi lao động. Việc tăng dân số gây áp lực lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, an ninh trật tự và quản lý đô thị, tăng áp lực về khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, việc làm, nhà ở, quản lý dân cư đô thị.
- Phương tiện giao thông cá nhân tăng nhanh (ô tô và xe máy) trong khi phát triển hạ tầng giao thông công cộng còn hạn chế, dẫn tới ùn tắc giao, tai nạn giao thông diễn biến phức tạp. Lượng xe máy nhiều, trong khi Thành phố chưa có lộ trình hạn chế xe máy trong nội thành vì vậy khó xây dựng được Thủ đô văn minh sạch đẹp theo kịp các Thành phố trong khu vực.
IV ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đánh giá chung:
Sau 5 năm mở rộng địa giới hành chính theo Nghị quyết của Quốc hội, mặc dù gặp không ít khó khăn thách thức, địa giới hành chính Thành phố được mở rộng, dân số quy mô lớn, yêu cầu phải giải quyết khối lượng công việc nhiều, đan xen phức tạp, phát triển kinh tế trong điều kiện suy giảm kinh tế trong và ngoài nước nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã phát huy truyền thống đoàn kết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, lựa chọn xác định công việc trọng tâm trọng điểm, những khâu đột phá, điều hành quyết liệt, đã tổ chức thực hiện thắng lợi Kết luận của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội.
Thành phố đã sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, ổn định đi vào hoạt động ngay sau điều chỉnh địa giới hành chính. Trong bối cảnh suy thoái và khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế Thủ đô vẫn tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch và hoàn thiện theo hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng và nông lâm thủy sản. Năm 2012, GRDP bình quân đầu người tăng 1,33 lần, tổng vốn đầu tư xã hội tăng 1,86 lần, thu ngân sách tăng 2 lần so với so với năm 2008 - năm đầu tiên thực hiện mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội; lĩnh vực văn hóa xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển; công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, đất đai trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích cực; hạ tầng giao thông và vệ sinh môi trường đô thị được cải thiện; tình hình chính trị ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững, củng cố và tăng cường; công tác đối ngoại được tăng cường mở rộng; công tác xây dựng hệ thống chính trị được củng cố ngày càng hoàn thiện. Bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều thay đổi, tạo diện mạo mới cho Thủ đô sau 5 năm phát triển được nhân dân phấn khởi đồng tình ủng hộ.
Vai trò, vị trí của Thủ đô với cả nước ngày càng quan trọng. Thực tế phát triển của Thủ đô trong 5 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn, giá trị lịch sử, ý nghĩa thực tiễn lâu dài của chủ trương mở rộng địa giới hành chính đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô. Năm 2010, Thành phố đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng Huân chương Sao Vàng. .
Cùng với việc mở rộng địa giới hành chính theo Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011-2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô và Luật Thủ đô được Quốc hội ban hành đã tạo thế và lực mới cho Thủ đô tiếp tục phát triển đi lên trong giai đoạn tới.
2. Bài học kinh nghiệm
Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức, sau 5 năm thực hiện Kết luận của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội, Thành phố đã đạt được những kết quả lớn đáng khích lệ. Qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Một là, sự quyết liệt, thống nhất trong quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ; sự phối hợp trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương đã tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong toàn đảng, toàn quân, toàn dân và dư luận xã hội; đây là động lực, điểm tựa vững chắc và là điều kiện quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô tổ chức thực hiện triển khai tập trung có hiệu quả Nghị quyết.
Hai là, thực hiện đúng chỉ đạo của Trung ương; bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và quy định của Chính phủ trong việc thực hiện Nghị quyết; chủ động xây dựng mối đoàn kết thống nhất; tập trung, kiên quyết, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của tập thể lãnh đạo Thành ủy, HĐND, UBND, MTTQ, các tổ chức đòan thể chính trị xã hội và các ngành, các cấp của Thành phố.
Ba là, ngay từ sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12, Thành phố triển khai tích cực công tác tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội, tạo ra sức mạnh mới đoàn kết, đồng tâm hợp lực giải quyết những khó khăn trước mắt, thực hiện tốt các yêu cầu nhiệm vụ của Thủ đô trong tình hình mới, tạo không khí phấn khởi của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô.
Bốn là, sự gương mẫu chấp hành sự phân công, bố trí sắp xếp lại tổ chức của các đồng chí lãnh đạo và cán bộ, công chức viên chức đã tạo nên không khí phấn khởi, đoàn kết, tin tưởng cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức để tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
Năm là, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, truyền thống đoàn kết, thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận xã hội của nhân dân. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, trong hệ thống cơ quan hành chính của Thành phố và toàn xã hội, tạo nên sức mạnh tập thể thống nhất, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ THỜI GIAN TỚI
I. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
Trong 5 năm tới, trên cơ sở quán triệt và tiếp tục thực hiện Nghị Quyết 15/NQ-QH12 của Quốc hội, vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, của Luật Thủ đô, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ Thành phố, Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội, huy động tối đa sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần của Thủ đô và cả nước xây dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của Vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước; có kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Phấn đấu để Hà Nội thực sự là địa phương đi đầu, về đích sớm 1 - 2 năm hoàn thành cơ bản sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; đóng góp ngày càng quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II. NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Phát triển kinh tế
Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững, tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của kinh tế Thủ đô. Coi trọng sử dụng công nghệ hiện đại, tăng nhanh tỉ lệ nội địa hoá, có nhiều sản phẩm với hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao. Tập trung phát triển đồng bộ, vững chắc các yếu tố thị trường và các loại thị trường, nhất là những loại thị trường mới được hình thành, như bất động sản, chứng khoán, lao động, khoa học - công nghệ...
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Khuyến khích, phát triển các loại hình dịch vụ có trình độ và chất lượng cao; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xuất - nhập khẩu, du lịch. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao; nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn. Phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, sinh thái, sạch, công nghệ cao; đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới, phấn đấu 2/3 số xã đạt tiêu chí vào năm 2020. Phấn đấu mức tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2011 - 2020 đạt khoảng 11,5 - 12%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 7.100 - 7.500 USD/năm; xứng đáng là trung tâm kinh tế lớn, trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu của vùng và cả nước.
2. Phát triển văn hóa xã hội
Huy động mọi tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực và đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ thực sự trở thành những trung tâm lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô và cho sự phát triển chung của vùng và cả nước.
Tiếp tục xây dựng văn hoá Thủ đô xứng tầm với truyền thống ngàn năm văn hiến; tạo bước chuyển biến mới trong xây dựng văn hoá người Hà Nội thanh lịch, văn minh; tiếp tục phát triển hệ thống thông tin đại chúng, sự nghiệp sáng tạo văn học, nghệ thuật, hoàn thiện các thiết chế văn hoá, bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống Thăng Long - Hà Nội đi đôi với xây dựng mới các công trình văn hoá tiêu biểu.
Xây dựng, phát triển, nâng cao vị thế hàng đầu của giáo dục - đào tạo Thủ đô; đi đầu trong phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục trung học phổ thông và trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục xây dựng, nhân rộng các trường chất lượng cao ở tất cả các bậc học, cấp học. Rà soát, đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống giáo dục.
Phát triển đồng bộ hệ thống y tế đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ nhân dân đi đôi với đầu tư phát triển một số cơ sở y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao, đạt trình độ khu vực và quốc tế. Làm tốt công tác y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chủ động phối hợp với các học viện, trường đại học, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn; coi trọng hợp tác quốc tế để đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ, phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô.
Tăng cường công tác phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thực hiện tốt các chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân Thủ đô, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa thành thị và nông thôn.
3. Phát triển hạ tầng, xây dựng, quản lý đô thị, xây dựng nông thôn mới
Tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý quy hoạch bảo đảm đồng bộ, hiện đại, ổn định và lâu dài. Trên cơ sở các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đẩy nhanh việc xây dựng các quy hoạch chi tiết, phân khu chức năng, ngành, lĩnh vực và địa phương.
Huy động tối đa mọi nguồn lực tạo bước đột phá về tăng cường đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông và hạ tầng kỹ thuật khung làm cơ sở để đẩy nhanh tiến trình xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại. Tập trung đầu tư để cơ bản hoàn thành việc cải tạo hệ thống giao thông khu vực nội đô vào năm 2015; sớm hoàn thành các dự án tuyến đường vành đai; triển khai nhanh các dự án giao thông trên cao, đường sắt đô thị, các công trình ngầm gắn với phát triển vận tải hành khách công cộng. Đẩy nhanh tiến độ cải tạo và nâng cấp hệ thống cung cấp điện, cấp, thoát nước thành phố.
Tiếp tục phát triển các khu đô thị mới, xây dựng các khu đô thị vệ tinh. Xử lý tốt hơn những vấn đề về nhà ở đô thị, quản lý đất đai, trật tự xây dựng, trật tự và an toàn giao thông, trật tự công cộng, xử lý chất thải và bảo đảm vệ sinh môi trường, xây dựng nếp sống văn minh đô thị... Hoàn thành việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, một số trường đại học, cơ sở khám, chữa bệnh ra khỏi trung tâm thành phố. Tăng cường công tác quản lý dân cư trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố, nhất là các địa phương lân cận đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, an ninh nông thôn và giải quyết việc làm, nhằm hạn chế tình trạng di dân tự phát vào Hà Nội.
Tập trung nguồn lực xây dựng nông thôn mới, đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo quy hoạch, ưu tiên cải thiện hệ thống đường giao thông nông thôn, hệ thống tưới tiêu, thoát nước thải, cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nâng cấp các chợ, xây dựng các khu chăn nuôi và sản xuất tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm tách khỏi khu dân cư. Quan tâm xây dựng trường học, trạm y tế; tăng cường đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa ở cơ sở và chỉnh trang hạ tầng nông thôn.
4. Bảo đảm an ninh quốc phòng
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, các hoạt động đối ngoại quốc gia, các sự kiện chính trị lớn diễn ra trên địa bàn.
Tiếp tục xây dựng lực lượng quân đội, công an Thủ đô cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Xây dựng vững chắc thế trận lòng dân, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh ngay từ khi xác định chủ trương, hình thành các dự án, công trình cụ thể; tập trung đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Triển khai có hiệu quả việc đấu tranh với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; xử lý có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để bất ngờ xảy ra.
5. Mở rộng hoạt động đối ngoại và hợp tác phát triển
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Tăng cường các hoạt động đối ngoại, nhất là với thủ đô các nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết và giao lưu với một số địa phương trong vùng và cả nước.
6. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân
- Nâng cao chất lượng của hệ thống chính quyền các cấp. Tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp; Nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành của UBND và cơ quan hành chính các cấp; củng cố kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp của Thành phố.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân các cấp.
- Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Thành phố.
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành TW tạo điều kiện sớm ban hành các Nghị định, Thông tư cụ thể hóa Luật Thủ đô để Hà Nội triển khai thực hiện Luật có hiệu quả.
2. Thủ đô Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích lớn, dân số đông, nhu cầu phát triển Thủ đô theo hướng hiện đại, theo kịp thủ đô các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn, Thành phố Hà Nội đề nghị Trung ương tiếp tục hỗ trợ theo hướng tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách (ít nhất là 45%) để Thành phố có điều kiện thực hiện tốt chủ trương của Trung ương về mở rộng địa giới hành chính, xây dựng Thủ đô văn minh hiện đại.
3. Theo mục tiêu mở rộng Thủ đô Hà Nội, một trong những nhiệm vụ quan trọng là sắp xếp di dời cơ sở sản xuất kinh doanh, các trường đại học ra ngoài khu vực nội thành, tuy nhiên việc triển khai còn chậm, không có lộ trình cụ thể, đề nghị Chính phủ tăng cường chỉ đạo, có lộ trình, giải pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả.
4. Đề nghị Trung ương tiếp tục chỉ đạo phân cấp mạnh hơn cho Hà Nội đối với các lĩnh vực, vấn đề cụ thể về quản lý đô thị, đầu tư, tài chính,... để tăng tính tự chủ cho Thành phố trong giải quyết công việc của Thủ đô.
5. Đề nghị Trung ương tăng cường đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia trên địa bàn Hà Nội; cân đối, bố trí kịp thời nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung ngân sách Trung ương cho các công trình trọng điểm thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương triển khai trên địa bàn song giao Thành phố thực hiện. Đồng thời, ủng hộ giới thiệu các dự án FDI quy mô lớn, có công nghệ cao; các dự án sử dụng vốn ODA để phát triển hạ tầng,… đầu tư trên địa bàn Thành phố.
6. Trong quá trình phát triển, một số huyện ven đô có tốc độ đô thị hóa cao, một số phường khu vực phát triển có quy mô dân số lớn, đề nghị Chính phủ chấp thuận cho phép thành lập các quận mới, tách một số phường đảm bảo phù hợp và nâng cao hiệu quả quản lý khu vực đô thị.
[1] Mổ nội soi tiêu hoá, tiết niệu, phẫu thuật chấn thương sọ não, nối mạch máu, nội soi can thiệp tim mạch tại Bệnh viện đa khoa Xanh pôn, xạ trị điều trị ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu, máy phát hiện nhanh vi khuẩn lao ở phổi, thụ tinh nhân tạo, phẫu thuật tim hở…
[2] Theo đánh giá của Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, năm 2010, 3 địa phương này gồm: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu