Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Hà Thị Mỹ Dung cho biết, từ khi Việt Nam thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, KTNN đã xây dựng kế hoạch kiểm toán, tập trung vào những vấn đề được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, xã hội quan tâm, nhất là các lĩnh vực dễ xảy ra thất thoát, tham nhũng, lãng phí.
Với phương châm thông qua kết quả kiểm toán và tăng cường kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán, KTNN đã phối hợp với các cơ quan có liên quan đôn đốc thu hồi nhanh chóng, dứt điểm đối với việc sai phạm trong quản lý và sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước.
Bên cạnh đó, việc công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán được thực hiện định kỳ nhằm thông tin đầy đủ, kịp thời về hoạt động điều hành và quản lý ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, lãnh đạo KTNN thừa nhận, trên thực tế, vẫn còn trường hợp chưa thực hiện đúng, kịp thời các kết luận, kiến nghị của KTNN, nhất là việc xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm. Việc khai thác, sử dụng kết quả kiểm toán phục vụ cho công tác điều hành, kiểm tra, giám sát vẫn còn hạn chế.
Về phía KTNN, kết quả phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước còn hạn chế. Do phương pháp kiểm toán chủ yếu là hậu kiểm dựa trên hồ sơ nên việc nhận biết, phát hiện dấu hiệu tham nhũng chưa đầy đủ, chưa kịp thời.
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Hà Thị Mỹ Dung đề nghị cần phân tích rõ hơn về vai trò của KTNN trong phòng, chống tham nhũng, thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán của KTNN cũng như việc thi hành các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng tại KTNN trong thời gian qua.
Theo PGS.TS. Đặng Văn Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA): Hiệu quả, hiệu lực phòng, chống tham nhũng của KTNN chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất quyết tâm chính trị.
Nếu các cấp ủy Đảng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đều có quyết tâm chính trị, sẵn sàng đối mặt và đấu tranh với tệ tham nhũng thì các giai đoạn, các hoạt động tiếp theo sẽ được diễn ra một cách thuận lợi, trôi chảy.
Yếu tố thứ hai là pháp lý. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là hoạt động sử dụng nhiều công cụ khác nhau nhưng pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất. Nếu không có hệ thống các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng thì không thể có cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động phòng ngừa và xử lý tham nhũng.
Hệ thống luật pháp về KTNN được ban hành mang tính toàn diện, phù hợp, thực tiễn và khả thi sẽ là điều kiện tiên quyết để phòng, chống tham nhũng có hiệu lực và hiệu quả cao. Các quy định về phòng ngừa tham nhũng được quy định một cách chặt chẽ, có sự phối hợp đồng bộ trên các lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện cho KTNN, các kiểm toán viên tuân thủ pháp luật, giảm khả năng vi phạm pháp luật về phòng ngừa tham nhũng.
Yếu tố thứ ba là kinh tế. Các chủ trương, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế phải tiên lượng được mọi tình huống, các quy định về quy trình, cách thức kiểm toán của một cuộc kiểm toán cần triệt tiêu mọi điều kiện có thể trao cơ hội trục lợi cho các cá nhân, tổ chức liên quan. Ngoài ra, Nhà nước quan tâm đến lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) của những người tham gia phòng, chống tham nhũng thì sẽ khuyến khích, động viên họ sẵn sàng cùng với các cơ quan chức năng chỉ ra những bằng chứng, cung cấp thông tin về các hành vi tham nhũng.
Hoạt động phòng, chống tham nhũng đòi hỏi KTNN và các kiểm toán viên phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật không chỉ trong lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán mà cả trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng.
Cuối cùng, yếu tố thông tin, truyền thông và dư luận xã hội cũng quan trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng như một kênh thông tin quan trọng, chuyển tải các thông tin, kiến thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động và kết quả hoạt động của KTNN, về các vụ việc gian lận, tham nhũng đã xảy ra, kết quả xử lý. Những thông tin đó phục vụ đắc lực cho công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần ngăn ngừa công chức thực hiện hành vi tham nhũng trong hoạt động công vụ nói chung, hoạt động kiểm toán nói riêng.
Mặt khác, các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai, là nơi các tầng lớp nhân dân có thể đề xuất các sáng kiến, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lên tiếng tố cáo các hành vi tham nhũng...; từ đó, giúp các cơ quan chức năng khám phá, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh những cán bộ, công chức phạm tội tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng.
Chia sẻ một số mô hình của các nước về định vị vai trò của KTNN trong chống tham nhũng, ông Nguyễn Việt Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (KTNN) cho biết, ở Hàn Quốc, Ủy ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc (BAI) có chức năng thanh tra, đóng vai trò trực tiếp trong chống tham nhũng và có kế hoạch chiến lược riêng cho nhiệm vụ này. BAI áp dụng nhiều biện pháp như Cơ chế người dân đề nghị kiểm toán cho phép người dân có thể đề nghị thực hiện các cuộc kiểm toán riêng đối với các cơ quan công bị nghi ngờ tham nhũng.
Còn tại Ấn Độ, Cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) có vai trò ngăn ngừa thông qua củng cố trách nhiệm giải trình, cơ chế quản lý tài chính và kiểm toán nội bộ, sử dụng việc công khai các sai lệch/khác biệt làm biện pháp ngăn ngừa gian lận và tham nhũng.
Ấn Độ có cơ chế khiếu nại chống tham nhũng rất mạnh và bản thân SAI Ấn Độ cũng chịu sự điều chỉnh của Luật về quyền thông tin Ấn Độ (RTI). SAI Ấn Độ có một viện đào tạo chuyên ngành là Trung tâm tinh hoa kiểm toán gian lận, kỹ thuật phát hiện gian lận và kiểm toán pháp y.
Ấn Độ khuyến khích sử dụng cơ chế tố cáo và thực hiện kiểm toán pháp y trong trường hợp nghi ngờ/phát hiện hành vi gian lận. Ngoài ra, SAI Ấn Độ còn có Khung quản lý chất lượng kiểm toán nhằm đảm bảo việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán.
Huy Thắng