Đây là ý kiến của Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công tại Diễn đàn "Hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)" do VCCI, UBND TP. Cần Thơ phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức ngày 26/5.
Hệ thống logistics chưa tương xứng với vựa lương thực
Ông Phạm Tấn Công cho biết tại Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được tổ chức ngày 22/4 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh những lợi thế của vùng.
Đây là một trong những đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất ở Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, hằng năm ĐBSCL có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn hàng hóa. Tuy nhiên, vùng còn thiếu các trung tâm logistics trọng điểm và các hệ thống trung tâm vệ tinh, thiếu bãi container rỗng. Hệ thống kho và các cảng hệ thống cảng biển còn thiếu, nhất là các cảng nước sâu cho tàu vận chuyển container xuất khẩu. Do đó, hàng hóa nói chung, hàng nông sản nói riêng phải vận chuyển qua nhiều địa điểm và đưa lên TPHCM để xuất đi nơi khác. Trong đó, 70% lượng hàng hóa này phải truyền tải đến các cảng lớn ở TPHCM và cảng Cái Mép (Bà Rịa-Vũng Tàu) khiến chi phí vận tải doanh nghiệp phải gánh cao hơn từ 10 - 40%, tùy theo từng chuyến, ảnh hưởng rất lớn đến sự cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
"Bên cạnh đó, phần lớn các dịch vụ logistics chỉ dừng lại ở từng hoạt động riêng lẻ, chưa kết nối chặt chẽ giữa các phương thức vận tải nên thường gây ra chậm trễ, chi phí phát sinh cao như phí dịch vụ lưu kho bãi, thời gian chờ đợi đều tăng. Vì thế có thể thấy ĐBSCL mặc dù là trung tâm lớn trong sản xuất nông nghiệp của cả nước nhưng chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản đang là một nút thắt, cản trở sự tăng trưởng kinh tế của vùng. Do đó, cần có giải pháp kịp thời để gỡ nút thắt này", ông Phạm Tấn Công bày tỏ.
Chủ tịch VCCI kỳ vọng sớm có phương án chính sách và mô hình hiệu quả, phát triển hệ thống hạ tầng logistics; đồng bộ hệ thống kết cấu giao thông vận tải, tăng lợi thế cạnh tranh cho nông sản, tạo đầu ra bền vững cho nông sản của vùng…
Ông Phạm Tấn Công cũng bày tỏ tin tưởng với sự đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống hạ tầng giao thông vận tải đô thị, thuỷ lợi, phòng chống thiên tai, logistics phục vụ nông nghiệp, ĐBSCL trong những năm tới sẽ có diện mạo rất khác. Từ đó, "dòng chảy" nông sản đến thị trường sẽ nhanh hơn, chi phí sẽ giảm, sức cạnh tranh hàng hóa sẽ cao hơn... VCCI sẽ tổng hợp và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền, hướng tới đóng góp sáng kiến cùng các cơ quan chuyên môn trong định hướng xây dựng và vận hành thị trường, góp phần hoàn thiện dịch vụ chuỗi logistics cho nông sản ĐBSCL, đảm bảo tính liên kết ổn định, giảm chi phí, giúp tận dụng được các lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đang tham gia.
Ông Nguyễn Thành Phong, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết đến nay, ĐBSCL đã hình thành các mô hình chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, hiệu quả, tăng lợi thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, điểm nghẽn lớn nhất đối với phát triển kinh tế ĐBSCL chính là hệ thống logistics kết nối tất cả các bên trong toàn bộ chu trình sản xuất tới tiêu dùng còn chưa hoàn thiện. Cụ thể, ĐBSCL đang là khu vực có chi phí logistics cao nhất, chiếm đến 30% giá thành sản phẩm và điều này mâu thuẫn với đóng góp về hàng hóa của vùng.
Có cùng quan điểm, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho rằng ĐBSCL dù có đủ các loại hình vận tải "sông - biển - bộ - hàng không" nhưng hệ thống logistics khu vực này lại thiếu tính liên kết đồng bộ, cơ sở hạ tầng không đáp ứng nhu cầu thực tế.
ĐBSCL còn thiếu hệ thống cảng biển, nhất là cảng nước sâu cho tàu vận chuyển container xuất khẩu, thiếu các trung tâm logistics trọng điểm và các hệ thống trung tâm vệ tinh, thiếu bãi container rỗng, hệ thống kho ở các cảng, đơn vị kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm, chiếu xạ đạt chuẩn... Bên cạnh đó, dù sở hữu hệ thống kênh rạch dày đặc nhưng do đặc trưng luồng lạch khác biệt giữa các địa phương nên nhìn chung, khu vực ĐBSCL không hình thành được tuyến vận tải thủy nội địa có tải trọng riêng biệt. Các sà lan cũng không thể chuyên chở tối đa tải trọng cho phép do hạn chế chiều cao tĩnh không của những cây cầu phục vụ giao thông đường bộ nên trọng tải sà lan chỉ ở mức từ 1.500-3.500 tấn.
Theo thống kê của VLA, hiện nay, 13 tỉnh ĐBSCL chỉ có 1.461 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, chiếm khoảng 4,39% số lượng doanh nghiệp logistics của cả nước. Trong đó, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp rất hạn chế (chủ yếu là các doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp thuỷ sản tự cung cấp hạ tầng logistics cho sản phẩm của mình). Điều này làm gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh của nông sản ĐBSCL nói riêng và nông sản Việt nói chung.
Giải pháp đồng bộ
Dưới góc độ cơ quan quản lý, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng thực tế tại ĐBSCL còn cho thấy phần lớn các dịch vụ logistics chỉ dừng lại ở từng hoạt động riêng lẻ, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các phương thức vận tải nên thường gây ra chậm trễ, chi phí phát sinh cao. Các doanh nghiệp logistics hoạt động tại ĐBSCL mới chỉ dừng lại ở việc giao nhận vận tải, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan, vận chuyển nội địa, gom hàng nhỏ lẻ chứ chưa thể tích hợp, tổ chức và liên kết các hoạt động trong chuỗi logistics.
Ông Trần Thanh Hải cho rằng cần tận dụng lợi thế nguồn hàng hóa nông sản. Việc tập trung tăng cường liên kết vùng, tạo điều kiện thông thương hàng hóa nông sản là vấn đề cấp bách, để giúp kinh tế vùng phát triển nhanh hơn bằng lợi thế vốn có.
Từ đó, ông Trần Thanh Hải đề xuất 5 giải pháp để phát triển logistics cho vùng ĐBSCL.
Thứ nhất, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tập trung vào quy hoạch logistics toàn vùng, hoàn thiện thể chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư trong hoạt động logistics, nhất là hoạt đồng đầu tư của các dự án. Tạo cơ chế cho nhà đầu tư; thúc đẩy đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải vùng ĐBSCL giai đoạn 2022 - 2025; điều chỉnh việc phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công; xúc tiến đầu tư theo hợp tác công-tư.
Thứ hai, hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ logistics theo hướng đẩy mạnh đầu tư, tận dụng lợi thế sẵn có của phương thức vận tải đường thủy. Cải tạo, nâng cấp các luồng tàu biển chính trong khu vực. Việc phát triển cảng biển cần gắn với các trung tâm sản xuất hàng hóa, kêu gọi đầu tư cảng ngoài khơi để đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trực tiếp cho vùng.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển những trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản với những dịch vụ chủ yếu như vận tải, kho hàng, bảo quản hàng hóa và các dịch vụ giá trị gia tăng.
Thứ tư, tăng cường liên kết giữa các bên trong chuỗi cung ứng hàng nông sản: Người nông dân - thương lái - nhà máy chế biến - doanh nghiệp thương mại - doanh nghiệp logistics.
Thứ năm, nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng nguồn nhân lực logistics; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hiện đại hóa hoạt động sản xuất, chế biến và hoạt động dịch vụ logistics.
Anh Minh