Ảnh minh họa |
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP sau khi ban hành đã tạo hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt, thời gian qua đã đem lại những chuyển biến tích cực trong hoạt động thanh toán của nền kinh tế.
Tuy nhiên, Nghị định 101/2012/NĐ-CP chưa liệt kê rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Thực tiễn tại Việt Nam hiện nay đã có phương tiện thanh toán điện tử, thể hiện dưới hình thức thẻ ngân hàng và ví điện tử. Việc nêu rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như séc, lệnh chi, thẻ ngân hàng, ví điện tử sử dụng trong thanh toán là rất quan trọng để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng dự thảo nhằm bổ sung làm rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Đặc biệt là bổ sung các quy định về phương tiện thanh toán mới ví điện tử.
Để làm rõ ví điện tử với tư cách là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, dự thảo nêu rõ: Ví điện tử là phương tiện thanh toán được sử dụng trong các giao dịch điện tử do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (tổ chức cung ứng ví điện tử) cung ứng. Ví điện tử được tạo lập thông qua các phương tiện điện tử, trên vật mang tin (như chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính…), cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán hoặc tiền mặt vào tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng ví điện tử của tổ chức cung ứng ví điện tử theo tỉ lệ 1:1.
Tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng ví điện tử là tài khoản bằng đồng Việt Nam của tổ chức cung ứng ví điện tử được mở tại các ngân hàng để đảm bảo cho việc cung ứng ví điện tử.
Điều kiện cung ứng ví điện tử
Theo dự thảo, tổ chức cung ứng ví điện tử khi cung ứng phương tiện thanh toán này phải đáp ứng các điều kiện sau: 1- Các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung ứng ví điện tử phải phù hợp với các hoạt động được ghi trong giấy phép thành lập và hoạt động được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán do Ngân hành Nhà nước cấp, trong đó có dịch vụ ví điện tử.
2- Tổ chức cung ứng ví điện tử phải có tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng ví điện tử tại ngân hàng. Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cung ứng ví điện tử phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng ví điện tử tại ngân hàng mình hoặc tại một ngân hàng khác.
3- Có công cụ để kiểm tra, giám sát theo thời gian thực đảm bảo tổng số tiền trên tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng ví điện tử không thấp hơn tổng số tiền trên ví điện tử đã phát hành của tổ chức cung ứng ví điện tử.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Tuệ Văn