Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Hoài Thu. |
Theo đánh giá của Chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Hoài Thu: Thực tế, tỷ lệ sinh tuy có dao động và giảm chậm trong 5 năm qua, song vẫn theo xu hướng giảm dần. Điều đáng mừng là kết quả Điều tra biến động dân số năm 2005 cho thấy Việt Nam đã tiệm cận mức sinh trung bình là 2 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy vậy, công tác dân số vẫn đang và sẽ còn gặp nhiều thách thức. Năm 2005 dù chúng ta đã tiệm cận mức sinh thay thế, song kinh nghiệm thế giới cho thấy đây đang là giai đoạn tỷ lệ sinh sẽ dao động, vì vậy nếu không tập trung mọi nguồn lực cho công tác dân số thì chúng ta khó có thể giữ mức trung bình 2 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Với quy mô dân số 83 triệu người, cho dù mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con thì dân số Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gia tăng trong những năm tới. Mục tiêu ổn định dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ 21, sẽ vẫn là một thách thức lớn đối với nước ta.
Các đại biểu đã phát biểu nhiều ý kiến tâm huyết xung quanh những vấn đề trên, hầu hết bày tỏ nguyện vọng: Đề nghị Ban bí thư Trung ương Đảng khóa X sớm ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất trong toàn quốc việc xử lý cán bộ, Đảng viên vi phạm chính sách dân số theo Nghị quyết 47/BBT-TƯ khóa IX. Đề nghị Quốc hội ủng hộ việc ban hành Luật Dân số thay thế Pháp lệnh Dân số hiện hành. Khi phân bổ ngân sách cần lưu ý tăng nguồn lực cho công tác dân số, gia đình và trẻ em, đặc biệt nguồn lực cho vùng có tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong trẻ em còn cao và những tỉnh, thành phố có mức dân nhập cư cao. Đồng thời chú trọng giám sát việc phân bổ, sử dụng ngân sách, tránh lãng phí và phân tán nguồn lực. Ủng hộ dự án Luật Bình đẳng giới để từng bước xóa bỏ bất bình đẳng giới, góp phần làm cân bằng giới tính, duy trì sự phát triển bền vững của dân tộc.Đề nghị Chính phủ sớn Ban hành Nghị định về Đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính về dân số, gia đình và trẻ em, hướng dẫn quản lý người di cư. Tiếp tục chỉ đạo các địa phương, đoàn thể đưa chỉ tiêu không sinh con thứ 3 trở lên vào điều lệ, hương ước, quy ước làng/bản, xã và làm tiêu chuẩn để xét công nhận cá nhân, gia đình văn hóa, làng, xã, cơ quan, đơn vị có nếp sống văn minh và trong việc xem xét, đánh giá đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Đại biểu Phạm Văn Trà (Đồng Tháp) |
Cả nước hiện ta hiện có khoảng 5,3 triệu người tàn tật, chiếm 6,34% tổng dân số, trong đó có tới 60% người tàn tật trong độ tuổi lao động. Đa số người tàn tật không thể sống tự lập, khoảng 70% sống dựa vào gia đình, chỉ có khoảng trên 25% số người tàn tật có hoạt động tạo được thu nhập, nhưng không ổn định và ở mức thấp. Theo cảnh báo của các chuyên gia, số người tàn tật đang có nguy cơ gia tăng do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ảnh hưởng của bom mìn sau chiến tranh, thảm họa thiên tai... điều đó càng đòi hỏi sự quan tâm thích đáng của Nhà nước và mỗi người dân.
Qua hoạt động giám sát của Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội tại 06 tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Bình Phước, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và khảo sát tại 04 tỉnh (Tuyên Quang, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh) tình hình thực hiện pháp luật về người tàn tật được triển khai tương đối toàn diện và đầy đủ, song việc ban hành văn bản hướng dẫn và công tác quản lý nhà nước ở Bộ, ngành và nhất là ở địa phương chưa được quan tâm đúng mức; Công tác xã hội hóa trong lĩnh vực này bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, song chưa tạo thành phong trào rộng khắp. Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội kiến nghị Quốc hội ủng hộ dự án Luật Người tàn tật (thay thế cho pháp lệnh); Khi thông qua dự toán ngân sách, cần dành những ưu tiên thích đáng cho lĩnh vực bảo trợ xã hội, đặc biệt là người tàn tật. Mặt khác cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan nhằm nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo cũng như người dân trong việc thực hiện pháp luật về người tàn tật và có biện pháp thiết thực nhằm giảm thiểu các nguy cơ gây ra tàn tật... Xúc tiến việc thành lập Hội người tàn tật Việt Nam để thu hút sự tham gia của người tàn tật và xã hội hóa thực hiện chính sách với người tàn tật; Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra nhằm thúc đẩy thực hiện tốt hơn, đầy đủ các quy định của pháp luật về người tàn tật…
Đại biểu Đặng Thị Phượng(Tây Ninh) |
Tình hình thực hiện pháp luật về người cao tuổi, nhất là sau khi Pháp lệnh người cao tuổi ra đời đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội trong việc chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của người cao tuổi được đẩy mạnh hơn để người cao tuổi “sống vui, sống khỏe” và người cao tuổi đang phát huy vai trò của mình trong công cuộc kiến thiết đất nước. Bên cạnh những mặt tích cực, có thể thấy còn một số hạn chế như nhận thức của một số cơ quan, tổ chức về chủ trương, chính sách đối với người cao tuổi và pháp luật về người cao tuổi chưa đầy đủ; công tác chăm sóc, phụng dưỡng và phát huy vai trò người cao tuổi còn bất cập; kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc người cao tuổi còn hạn hẹp, nhất là ở cơ sở. Nhiều hội người cao tuổi cơ sở, Ban đại diện cấp huyện, cấp tỉnh chưa phát huy vai trò, trách nhiệm, còn lúng túng, thiếu kỹ năng trong hoạt động. Công tác xã hội hóa chăm sóc người cao tuổi chưa tương xứng với tiềm năng, chưa huy động mọi nguồn lực cho công tác chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi.
Ủy ban đề nghị Quốc hội Ủng hộ việc xây dựng và ban hành Luật Người cao tuổi thay thế Pháp lệnh hiện hành. Quan tâm đến vấn đề người cao tuổi trong hoạt động giám sát và xây dựng pháp luật, chính sách. Khi xem xét thông qua Luật bảo hiểm xã hội và pháp luật có liên quan, nên quan tâm đến 2 vấn đề rất ảnh hưởng đến chính sách người cao tuổi: thứ nhất, ủng hộ bảo hiểm tự nguyện nhằm giúp người dân chuẩn bị cho cuộc sống khi về già; hai là, quy định tuổi nghỉ hưu của cán bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là cán bộ nữ. Đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ chưa có thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh người cao tuổi cần ban hành văn bản thuộc trách nhiệm của mình trong năm 2006. Cần xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nhằm tạo điều kiện để thực hiện tuyền truyền, hướng dẫn người cao tuổi tự rèn luyện và chăm sóc sức khỏe bản thân tại cộng đồng. Tăng cường vai trò của Ủy ban quốc gia về người cao tuổi, có cơ chế khuyến khích các hoạt động từ thiện, nhân đạo và xã hội hóa công tác chăm sóc người cao tuổi. Tăng cường việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về người cao tuổi. Xem xét nâng mức trợ cấp cho đối tượng người cao tuổi phù hợp với việc nâng chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, cần có giải pháp giúp đỡ các địa phương nghèo không tự cân đối được khoản trợ cấp cho người cao tuổi. Có chính sách quan tâm đối với phụ nữ cao tuổi, người cao tuổi cô đơn và người cao tuổi vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tạo điều kiện hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương có khó khăn về kinh phí và cơ chế chính sách trong việc xây dựng mô hình “Nhà xã hội” để chăm sóc người già cô đơn tại cộng đồng./.
Quốc Bình