
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trình bày Tờ trình về việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chiều 4/12, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030. Việc xây dựng Nghị quyết nhằm tháo gỡ vướng mắc, tạo đột phá cho các dự án năng lượng quan trọng, bảo đảm an ninh năng lượng và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Trình bày Tờ trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, việc ban hành Nghị quyết là cần thiết để giải quyết kịp thời những điểm nghẽn về thể chế, cơ chế và chính sách đang cản trở tiến độ các dự án năng lượng quy mô lớn. Mục tiêu cao nhất được xác định là bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia vững chắc, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2026-2030 và các mục tiêu phát triển bền vững.
Dự thảo Nghị quyết gồm 8 Chương, 24 Điều, tập trung vào các cơ chế đặc thù để khơi thông nguồn lực và tạo hành lang pháp lý thống nhất cho triển khai các dự án năng lượng. Nội dung bao quát các lĩnh vực trọng tâm như điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực; phương án phát triển mạng lưới truyền tải/phân phối điện; cơ chế đầu tư xây dựng dự án điện; phát triển điện gió ngoài khơi; mua bán điện trực tiếp; đầu tư các dự án dầu khí, than và chính sách dự trữ xăng dầu quốc gia.
Nghị quyết cũng quy định rõ nguyên tắc điều chỉnh quy hoạch linh hoạt cùng trách nhiệm của Bộ Công Thương trong việc hướng dẫn hồ sơ, quy trình và thẩm quyền điều chỉnh. Một số dự án lưới điện được đề xuất áp dụng cơ chế thay thế quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, nhằm rút ngắn thời gian chuẩn bị và đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Thẩm tra Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển năng lượng quốc gia. Đây là yêu cầu trọng tâm để đáp ứng mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Ủy ban đề nghị rà soát kỹ nội dung dự thảo, chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội, tránh đưa vào các nội dung thuộc thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật của Chính phủ, bộ, ngành hoặc địa phương. Việc này nhằm đảm bảo sự thống nhất với tinh thần đổi mới xây dựng pháp luật được nêu tại Nghị quyết số 66-NQ/TW.
Chính phủ được đề nghị giải trình rõ hơn đối với các cơ chế mới để bảo đảm tính khả thi và tránh rủi ro trong quá trình thực hiện.
Báo cáo thẩm tra nêu rõ một số nội dung cần Chính phủ giải thích đầy đủ. Trong đó có đề xuất miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án lưới điện nằm trong Quy hoạch điện lực hoặc phương án mạng lưới cấp điện của Quy hoạch tỉnh. Tuy nhiên, theo dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi), các quy hoạch này mang tính định hướng, không liệt kê danh mục dự án cụ thể. Vì vậy, việc xác định dự án thuộc hay không thuộc quy hoạch cần được làm rõ để đảm bảo tính hợp lý và khả thi.
Đối với đề xuất sử dụng quyết định phê duyệt quy hoạch thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, Ủy ban đề nghị đánh giá thận trọng, tránh xung đột với phương pháp tiếp cận mới của Luật Quy hoạch (sửa đổi), vốn tập trung vào định hướng và không xác định danh sách dự án cụ thể.
Liên quan đến cơ chế giao trực tiếp một số dự án nhằm bảo đảm tiến độ, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị xác định rõ điều kiện và tiêu chí áp dụng để bảo đảm cơ chế đặc thù này được sử dụng đúng mục đích.
Việc xác lập tiêu chí cũng giúp phân biệt rõ giữa các dự án được giao trực tiếp và những dự án bắt buộc phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy trình thông thường.
Các cơ chế liên quan đến điện gió ngoài khơi, dầu khí, lưới điện và dự trữ xăng dầu cần được xem xét đồng bộ, đảm bảo tính phù hợp với năng lực triển khai của bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm kiểm soát rủi ro trong thực tiễn.
Hải Liên