Bà Đặng Thị My (TPHCM) hỏi, tiêu chí để phân biệt hai khái niệm quản trị và quản lý được quy định tại 2 điều trên như thế nào?
Thực tế khi một công ty ban hành chính sách nội bộ, ngoài quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát được ghi nhận rõ ở Điểm l Khoản 2 Điều 138 thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thì các chính sách nội bộ khác của công ty (ví dụ: Quy chế vận hành của từng phòng ban, chính sách trả lương, phụ cấp, quy trình báo cáo và mời họp,...) không rõ sẽ nên phân loại là quy chế quản trị hay quản lý và thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng quản trị.
Về hoạt động đầu tư và các giao dịch thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 138 (quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác) và Điểm h Khoản 2 Điều 153 (thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng, giao dịch khác có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác và hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 138; Khoản 1 và Khoản 3 Điều 167 của Luật này).
Luật Doanh nghiệp không quy định như thế nào là khái niệm đầu tư nên không rõ khi nào một giao dịch khác tại Điểm h Khoản 2 Điều 153 là một giao dịch về đầu tư thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Bà My hỏi, đối với các hoạt động được liệt kê tại Điểm h Khoản 2 Điều 153 như mua, bán, vay, cho vay có được xem là hoạt động đầu tư thuộc Điểm d Khoản 2 Điều 138 hay không? Doanh nghiệp cần quy định cụ thể về từng loại hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị như thế nào để không bị chồng chéo trong cách hiểu và vận dụng đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp?
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau:
Trước hết, ghi nhận ý kiến của công dân về việc Luật Doanh nghiệp không có quy định giải thích thuật ngữ "đầu tư"; không có quy định phân biệt quy chế quản trị nội bộ và quy chế quản lý nội bộ của công ty cổ phần.
- Về quy chế quản trị nội bộ và quy chế quản lý nội bộ:
Điểm l Khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp quy định Đại hội đồng cổ đông "Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát".
Điểm l Khoản 2 Điều 153 quy định Hội đồng quản trị "Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty…".
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp công ty có quy chế quản lý nội bộ hoặc quy chế quản trị nội bộ thì Đại hội đồng cổ đông có thẩm quyền phê duyệt, Hội đồng quản trị có thẩm quyền quyết định ban hành.
Về thẩm quyền quyết định đầu tư và các giao dịch bán tài sản, Điểm d Khoản 2 Điều 138 quy định Đại hội đồng cổ đông "Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác".
Điểm h Khoản 2 Điều 153 Luật Doanh nghiệp quy định Hội đồng quản trị "Thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng, giao dịch khác có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác và hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 138, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 167 của Luật này".
Căn cứ các quy định nêu trên, Điều lệ công ty cần quy định cụ thể và phân định rõ các trường hợp đầu tư hoặc bán tài sản thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định cụ thể thì thực hiện theo nguyên tắc Hội đồng quản trị sẽ không quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông quy định tại Điều 138 Luật Doanh nghiệp.
Chinhphu.vn