In bài viết

Sắp xếp lại hệ thống đại học để tạo nên những trường mang tầm khu vực

(Chinhphu.vn) - Việc tái cấu trúc và sáp nhập hệ thống, nếu thực hiện bài bản, có đánh giá tác động và đảm bảo quyền lợi người học, người làm, sẽ tạo điều kiện tập trung nguồn lực, tinh giản bộ máy và nâng cao hiệu quả đầu tư công, từ đó thúc đẩy sự ra đời của những trung tâm đại học đa ngành, lan tỏa học thuật và công nghệ.

14/11/2025 15:39

Nhiều năm qua, mạng lưới cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam phát triển nhanh nhưng còn phân tán, manh mún, quy mô nhỏ và trùng lặp ngành nghề. Thực trạng này khiến nguồn lực bị chia cắt, khó hình thành các đại học mạnh có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế. Phân tích rõ thực trạng này, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN), cho rằng việc phân tán nguồn lực đã làm giảm cơ hội hình thành các đại học mũi nhọn, có vị thế trên bản đồ học thuật quốc tế.

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, việc sáp nhập đại học không chỉ là giải pháp về mô hình tổ chức mà còn là một quá trình chuyển đổi chiến lược, hướng đến nâng cao năng lực tri thức, chất lượng đào tạo, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và hiệu quả nguồn lực. Ông khẳng định, từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức hay các nước Bắc Âu, Việt Nam có thể rút ra 5 bài học quan trọng có giá trị tham khảo trực tiếp.

Sắp xếp lại hệ thống đại học để tạo nên những trường mang tầm khu vực- Ảnh 1.

GS.TS Nguyễn Đình Đức chia sẻ những kinh nghiệm của quốc tế trong tái cấu trúc hệ thống đại học

Khi có tầm nhìn và tự chủ, việc sáp nhập mới đi đường dài

Trước hết, nhiều quốc gia chỉ tiến hành sáp nhập trong khuôn khổ chiến lược quốc gia, gắn với tầm nhìn dài hạn về vai trò của đại học trong nền kinh tế tri thức.

Lấy ví dụ, GS Đức nhắc lại việc Nhật Bản tái cấu trúc hệ thống trường công vào đầu những năm 2000, hướng tới xây dựng các đại học quốc gia mạnh, tự chủ và cạnh tranh toàn cầu. Từ đó có thể thấy, Việt Nam cũng cần quy hoạch tổng thể, định vị rõ sứ mệnh của mỗi cơ sở sau sáp nhập và phân tầng trong toàn hệ thống.

Bên cạnh đó, tự chủ và minh bạch được xem là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công. Kinh nghiệm Hàn Quốc, Phần Lan cho thấy, sáp nhập chỉ phát huy hiệu quả khi các trường được trao quyền tự chủ về học thuật và tài chính, có quyền định hình mô hình quản trị, tuyển dụng, phát triển chương trình và mở rộng hợp tác doanh nghiệp.

GS Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh rằng, nếu tự chủ không đi cùng sáp nhập, quá trình hợp nhất rất dễ rơi vào hình thức hoặc tạo thêm gánh nặng cơ chế. Ông phân tích thêm, việc duy trì vai trò của Hội đồng trường như trong Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018 là điểm mấu chốt nhằm kiểm soát quyền lực và thúc đẩy đổi mới. Do đó, sáp nhập phải song hành với tự chủ thực chất, toàn diện và sâu sắc.

Hợp sức về học thuật để trường có thêm sức bật

Không ít quốc gia từng gặp thất bại vì sáp nhập "trên giấy", chỉ hợp nhất bộ máy nhưng không tạo ra giá trị học thuật. Theo phân tích của GS Nguyễn Đình Đức, bài học từ Pháp và Đức cho thấy "Đại học tổng hợp" chỉ thành công khi sự hợp nhất đi vào chiều sâu học thuật, bao gồm chia sẻ phòng thí nghiệm, tài nguyên nghiên cứu và xây dựng chương trình liên ngành. Việt Nam cần ưu tiên mục tiêu này: sáp nhập phải tạo ra năng lực học thuật mới, gia tăng sức mạnh nghiên cứu, chứ không chỉ biến đổi cơ cấu hành chính.

Cùng với đó, tôn trọng văn hóa và con người cũng là yếu tố quyết định. Nhật Bản cho rằng, sáp nhập các trường có truyền thống khác nhau không thể thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính.

Lấy ví dụ từ mô hình Nhật Bản, GS Nguyễn Đình Đức cho biết quốc gia này đã áp dụng lộ trình mềm, khuyến khích giảng viên, sinh viên và công đoàn tham gia vào quá trình, từ đó giữ vững bản sắc và tạo dựng môi trường học thuật đa văn hóa. Việt Nam, theo ông, cần quản trị sự thay đổi bằng đối thoại, minh bạch và đồng thuận.

Cuối cùng, các nước châu Âu đều coi kiểm định chất lượng và năng lực nghiên cứu là thước đo đánh giá sau sáp nhập. Các đại học như Aalto University (Phần Lan) hay Université Paris-Saclay (Pháp) nhanh chóng vươn lên thứ hạng cao nhờ tập trung đổi mới sáng tạo và liên kết doanh nghiệp. GS khẳng định, Việt Nam cũng cần xây dựng cơ chế đánh giá dựa trên chất lượng đào tạo và nghiên cứu, thay vì chỉ dựa vào quy mô hay số lượng đơn vị hợp nhất.

GS Nguyễn Đình Đức cho rằng, nếu được triển khai thận trọng, đúng lộ trình, sáp nhập đại học sẽ góp phần tinh gọn hệ thống, phát huy tự chủ, gia tăng hiệu quả đầu tư và tạo nền tảng hình thành các đại học mạnh, hội nhập quốc tế, trở thành trụ cột trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Ông nhấn mạnh thêm rằng đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam bứt phá, hình thành những đại học thực sự có tầm khu vực và quốc tế.

Thu Trang