Ảnh minh họa |
Tại Nghị định 33/2010/NĐ-CP, vùng biển Việt Nam được phân thành ba vùng khai thác thủy sản theo thứ tự: Vùng biển ven bờ, vùng lộng, vùng khơi. Trong đó, vùng biển ven bờ được giới hạn bởi mép nước biển tại bờ biển và tuyến bờ.
Còn tại Nghị định 53/2012/NĐ-CP đã quy định cụ thể, vùng biển ven bờ được giới hạn bởi mực nước thủy triều thấp nhất và tuyến bờ. Đối với các địa phương có đảo, UBND cấp tỉnh căn cứ vào sự cần thiết và đặc điểm cụ thể của từng đảo quy định vùng biển ven bờ của các đảo đó, nhưng giới hạn không quá 6 hải lý, tính từ mực nước thủy triều thấp nhất của đảo.
Điều kiện khai thác thủy sản ở ngoài vùng biển Việt Nam
Tổ chức, cá nhân khai thác thủy sản ở ngoài vùng biển Việt Nam ngoài việc phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Nghị định 33/2010/NĐ-CP như phải có đủ biên chế thuyền viên; đã được đăng ký, đăng kiểm; có bảo hiểm thuyền viên;... thì Nghị định 53/2012/NĐ-CP sửa đổi thêm quy định là phải có sổ thuyền viên tàu cá hoặc chứng chỉ nghiệp vụ thuyền viên tàu cá.
Đối với tổ chức, cá nhân đưa tàu cá đi khai thác ở vùng biển của quốc gia hoặc lãnh thổ khác phải đáp ứng các điều kiện quy định đối với tàu cá, đối với thuyền viên, người làm việc trên tàu cá và các điều kiện sau: Có hợp đồng hợp tác khai thác thủy sản đối với tổ chức, cá nhân của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có biển, được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có biển đó chấp thuận hoặc theo nội dung của Hiệp định hợp tác nghề cá giữa quốc gia và vùng lãnh thổ có biển với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Thuyền viên trên tàu phải có hộ chiếu phổ thông; trên tàu hoặc cùng một nhóm tàu phải có ít nhất 1 người biết tiếng Anh hoặc ngôn ngữ thông dụng của quốc gia, vùng lãnh thổ mà tàu cá đến khai thác; đáp ứng được điều kiện khác theo quy định của pháp luật nước sở tại (nếu có).
Hoàng Diên