Hoàn thiện và thể chế hóa kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
Tại Phiên họp này, các thành viên Chính phủ và khách mời quan tâm thảo luận các nội dung liên quan vấn đề phân cấp, phân quyền trong thi hành án dân sự; kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan liên quan; khuyến khích mở rộng thỏa thuận dân sự, song phải được luật pháp công nhận; bảo đảm quyền, nghĩa vụ của công dân và các bên có trách nhiệm, liên quan; chế tài xử phạt, bảo đảm tính khả thi…
Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, TS. Nguyễn Quang Thái, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) cho biết: Việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự nhằm tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện pháp luật
Theo đó, công tác Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đây là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hoạt động THADS là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, khai thông nguồn lực tài chính, góp phần cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư.
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục THADS, sau 15 năm triển khai thực hiện Luật THADS, hệ thống THADS đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Kết quả THADS về việc, về tiền ngày càng cao, có xu hướng bền vững và cơ bản đạt, vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao. Việc kiên quyết thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trong thời gian qua đã và đang nhận được nhiều sự đồng tình, ủng hộ của dư luận xã hội. Công tác THADS cũng trực tiếp góp phần tích cực xử lý nợ xấu, giải phóng các nguồn lực "đóng băng" trong tranh chấp.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, việc tổ chức thi hành Luật THADS và các văn bản quy định chi tiết còn chưa đạt kết quả như mong muốn do Luật THADS hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được đánh giá, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi phù hợp với tình hình thực tiễn.
Đánh giá về kết quả THADS thời gian qua, TS. Nguyễn Quang Thái lưu ý, kết quả công tác THADS chưa thực sự ổn định, bền vững. Tổng số việc còn phải thi hành chuyển sang kỳ sau qua các năm tuy có giảm nhưng vẫn cao; một số lượng án có điều kiện nhưng chưa tổ chức thi hành xong; số chưa có điều kiện thi hành án, nhất là về tiền vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số tiền phải thi hành. Kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt được còn thấp. Lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo còn nhiều; một số vụ việc phức tạp kéo dài, được dư luận quan tâm chưa được giải quyết dứt điểm, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh, chính trị, xã hội, cũng như tín nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với hoạt động của cơ quan THADS.
Một số bất cập trong THADS thể hiện ở các mặt như sau: Một số chủ trương, chính sách của Đảng trong thời gian gần đây liên quan trực tiếp đến công tác THADS chưa được thể chế hóa thành quy định pháp luật hoặc mới chỉ thể chế hóa một phần như Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2045, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, thống nhất nhận thức về các đặc trưng của NNQP Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu này; Chỉ thị số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2045, mục tiêu cụ thể đến năm 2 đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tố tụng.
Trong đó, đối với công tác thi hành án, Nghị quyết xác định: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án... Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp". Ngoài ra, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thi hành án. Đây là những cơ sở quan trọng cần phải cụ thể hóa thời gian tới.
Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định yêu cầu "Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp".
Đặc biệt, đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đây là bước cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, các chủ trương của Đảng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trong đó đặt ra giải pháp "Nghiên cứu rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, THADS và các quy định pháp luật liên quan"; Kết luận số 12-KL/TW ngày 06/4/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Xem xét, đề xuất sửa đổi pháp luật THADS, trong đó nghiên cứu quy định cụ thể tiêu chí phân loại nguyên nhân dẫn đến việc chưa có điều kiện; cơ chế thống kê, theo dõi phù hợp để xử lý căn cơ, toàn diện và nghiêm minh loại việc này; nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về các cơ chế, phương pháp định giá; tăng cường công khai, minh bạch về các giao dịch dân sự. Bên cạnh đó, để khắc phục bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực THADS, các Đoàn kiểm tra, giám sát của Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ năm 2013 đến nay đã ban hành nhiều kết luận, chỉ đạo
Ngày 27/10/2023 Bộ Chính trị ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đây là những vấn đề quan trọng cần phải được cụ thể hóa để triển khai thực hiện.
"Các văn bản nêu trên đã có nhiều tác động đến hoạt động THADS; xác lập mô hình, khuôn khổ, tạo nhiều chuyển biến tích cực đối với hoạt động này. Tuy nhiên, việc rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về THADS, nâng cao hiệu quả đối với hoạt động này, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới là một yêu cầu cần thiết", TS. Nguyễn Quang Thái nhấn mạnh.
Thẳng thắn nhìn nhận về những khó khăn, bất cập trong thực tiễn tổ chức THADS hiện nay cần sớm được khắc phục trong thời gian tới, TS. Nguyễn Quang Thái phân tích, mặc dù công tác xây dựng thể chế được quan tâm chỉ đạo và từng bước hoàn thiện, nhưng pháp luật THADS đã bộc lộ hạn chế, bất cập xuất phát từ trong nội tại các quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, hoặc chưa theo kịp các quan hệ phát sinh trong thực tiễn phát triển của đất nước; nhiều quy định chưa đồng bộ với các pháp luật khác liên quan.
Thời gian tổ chức thi hành án vẫn còn dài. Bên cạnh một số loại việc có thể thi hành nhanh chóng, đơn giản như kết chuyển tạm thu án phí, trả tiền, tài sản cho đương sự, thì vẫn còn không ít loại việc phải tốn nhiều thời gian để thi hành, nhất là các loại việc liên quan đến đất đai, thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ tham nhũng, kinh tế lớn. Ví dụ như Luật THADS hiện hành đã quy định các khâu của quá trình THADS.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thì có những khâu, Luật THADS chưa quy định rõ thời hạn, một số khâu thì quy định thời gian khá dài (từ thời gian tự nguyện; thông báo, tống đạt; thời gian để đề nghị cơ quan có thẩm quyền khi tài sản thi hành án có tranh chấp; thẩm định giá; bán đấu giá tài sản thi hành án; thủ tục xử lý các khoản tiền, tài sản khi hoàn trả nhưng đương sự không đến nhận; thủ tục miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; trình tự, thủ tục về biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong THADS)…
Đây là nguyên nhân dẫn đến thời gian giải quyết một vụ việc THADS còn khá dài trong tổng thể thời gian giải quyết một vụ việc dân sự. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng chi phí giải quyết vụ việc. Điều này không phù hợp với chủ trương mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra đối với công tác THADS đó là rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí thi hành án.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tại Việt Nam, tổng thời gian trung bình để giải quyết một vụ việc qua Tòa án là 400 ngày, trong đó giai đoạn thi hành án là 150 ngày. So với mặt bằng chung của một số nước trong khu vực thì thời gian giải quyết một vụ việc của chúng ta vẫn còn dài. Điều này ít nhiều tác động đến việc xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Đối với Nhà nước, quá trình tổ chức THADS cũng sử dụng ngân sách trong nhiều giai đoạn, như xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt, thông báo, thực hiện tương trợ tư pháp trong trường hợp thi hành các việc chủ động và phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài, áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án, thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời... v.v Đặc biệt, việc THADS càng kéo dài thì các chi phí phát sinh càng nhiều.
Kết quả THADS chưa thực sự bền vững. Tổng số việc còn phải thi hành chuyển kỳ sau qua các năm tuy có giảm nhưng vẫn cao; còn một số lượng án có điều kiện nhưng chưa tổ chức thi hành xong; số chưa có điều kiện thi hành, nhất là về tiền, vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số phải thi hành, trong đó gồm cả các việc đã chuyển sang theo dõi riêng nhưng chưa có cơ chế để xử lý dứt điểm và triệt để.
Theo đó, kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng chưa đáp ứng được so với yêu cầu. Lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo còn nhiều; một số vụ việc phức tạp kéo dài, được dư luận quan tâm chưa được giải quyết dứt điểm, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh, chính trị, xã hội, cũng như tín nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với hoạt động của cơ quan THADS.
Bộ máy và đội ngũ công chức thuộc Hệ thống THADS chưa được bố trí tương xứng với số lượng việc, tiền phải thi hành; công tác phối hợp và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có liên quan trong THADS vẫn còn có nơi, có lúc chưa nhịp nhàng; Hệ thống tổ chức THADS chưa phù hợp với đặc thù nhiệm vụ THADS trong Quân đội; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong THADS chưa đầy đủ, phù hợp; kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc đầu tư cho hệ thống THADS đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Đề cập đến các mục tiêu lớn của việc sửa đổi lần này, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự nhấn mạnh: Việc xây dựng chính sách trong dự án Luật nhằm hướng tới các mục tiêu sau đây:
Một là, tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động THADS được thể hiện trong nhiều nghị quyết, văn kiện; đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành", thi hành hiệu quả quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại.
Ba là, bảo đảm các cơ chế nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Rút ngắn thời gian, giảm chi phí THADS; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống THADS hoạt động công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảm bảo chính sách, chế độ đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và gắn bó với nghề.
Bốn là, kế thừa những quy định phù hợp, sửa đổi những quy định không còn phù hợp; bổ sung những vấn đề mới nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Năm là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của Hệ thống THADS.
Lê Sơn