Báo cáo kết quả thực hiện chính sách tín dụng tại vùng khó khăn, Bộ Tài chính cho biết: Về tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg: Đến hết ngày 31/12/2021, tổng doanh số cho vay đạt trên 84 nghìn tỷ đồng; dư nợ chương trình trên 27 nghìn tỷ đồng; dư nợ bình quân khoảng 39 triệu đồng/hộ; nợ quá hạn chiếm 0,21% dư nợ; nợ khoanh chiếm 0,37% dư nợ.
Về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn theo Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg: Đến ngày 31/12/2021, tổng doanh số cho vay đạt trên 1,6 nghìn tỷ đồng; dư nợ chương trình trên 180 tỷ đồng; dư nợ bình quân 46 triệu đồng/khách hàng; nợ quá hạn chiếm 1,08% dư nợ; nợ khoanh chiếm 0,52% dư nợ.
Các chương trình đã giúp trên 3 triệu lượt hộ gia đình sản xuất kinh doanh, thương nhân vùng khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, hoạt động thương mại. Vốn cho vay ưu đãi được triển khai cho vay đến 100% xã thuộc khu vực khó khăn trong cả nước, đã khơi dậy được tiềm năng phát triển kinh tế của vùng, nhân dân có điều kiện phát triển những ngành nghề thế mạnh của địa phương, góp phần tạo việc làm, cải thiện thu nhập, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Tuy nhiên trong thực tế triển khai chính sách, đã phát sinh những vướng mắc về xác định vùng khó khăn được thụ hưởng chính sách: Tại Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg quy định vùng khó khăn được thụ hưởng chính sách bao gồm các xã trong Danh mục ban hành kèm theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đến nay, Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn đã nhiều lần được cập nhật, sửa đổi. Do đó, quy định danh mục theo một quyết định cụ thể nêu trên chưa bám sát với thực tế thay đổi.
Có trường hợp một số thôn không thuộc danh mục các xã vùng khó khăn, tuy nhiên lại thuộc danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ban hành cho từng giai đoạn. Do đó, việc quy định "vùng khó khăn" chỉ bao gồm các đơn vị hành chính cấp xã đã dẫn đến trường hợp các thôn đặc biệt khó khăn nhưng lại không được thụ hưởng chính sách.
Về đối tượng được vay vốn của chương trình tín dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg: Quy định đối tượng hiện nay theo hướng "các hộ gia đình không thuộc diện hộ nghèo" để tránh việc các hộ gia đình đã được vay vốn sản xuất kinh doanh theo chương trình tín dụng hộ nghèo tiếp tục được vay vốn trùng lắp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có nhiều chương trình tín dụng cho hộ gia đình để sản xuất kinh doanh khác như chương trình tín dụng cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, chương trình cho vay giải quyết việc làm. Do đó, để tránh việc cho vay trùng lắp cùng một khách hàng giữa các chương trình thì cần phải bổ sung làm rõ trong quy định đối tượng được vay vốn.
Về mức cho vay tối đa: Hiện nay, mức cho vay tối đa đối với hộ sản xuất kinh doanh và thương nhân là cá nhân không thực hiện chế độ kế toán và nộp thuế khoán là 50 triệu đồng (đã được nâng mức vay từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng vào năm 2016). Tuy nhiên, theo đánh giá của NHCSXH, mức cho vay hiện tại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn của hộ sản xuất kinh doanh và thương nhân hoạt động thương mại vùng khó khăn.
Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay các chương trình tín dụng vùng khó khăn đã được điều chỉnh giảm xuống mức 0,8%/tháng (theo Quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 09/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ) và xuống mức 0,75%/tháng (theo Quyết định số 750/QĐ-TTg ngày 01/6/2015). Tuy nhiên, các văn bản điều chỉnh lãi suất nêu trên là văn bản chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, để đảm bảo căn cứ pháp lý thì vẫn cần thiết sửa đổi quy định về lãi suất cho vay của Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg.
Về biện pháp bảo đảm tiền vay theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg: Hình thức bảo đảm tiền vay duy nhất là bằng tài sản hình thành từ vốn vay theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, đa số hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn vay vốn để trồng trọt, chăn nuôi hoặc kinh doanh hàng hóa nhỏ, lẻ. Vốn vay chủ yếu đầu tư vào vốn lưu động để mua nguyên vật liệu, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón và các loại hàng hóa với thời gian luân chuyển ngắn. Sau khi tài sản đảm bảo tiền vay được hình thành, NHCSXH không thể kiểm soát được tình trạng về tài sản dẫn đến công tác xử lý tài sản đảm bảo không thực hiện được.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc xây dựng, ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung các chương trình tín dụng vùng khó khăn là cần thiết nhằm xử lý, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình tín dụng vùng khó khăn để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của các đối tượng thụ hưởng, vừa góp phần hạn chế, đẩy lùi "tín dụng đen", hỗ trợ người vay thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Khánh Linh