
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Tại Diễn đàn "Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước" ngày 21/11, Đại diện Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam, bà Phạm Minh Uyên đánh giá Việt Nam đang có bước tiến mạnh trong đảm bảo an toàn hồ đập, đặc biệt trong ứng dụng công nghệ và mô hình dự báo. Bà cho biết Hà Lan sẵn sàng mở rộng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực tài nguyên nước, AI, big data, cũng như kết nối các viện nghiên cứu và trường đại học giữa hai nước.
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, cho biết hệ thống hỗ trợ vận hành (DSS) giữ vai trò trung tâm trong dự báo lũ và vận hành hồ chứa. Hệ thống mô tả cấu trúc các công trình, mục tiêu điều hành và mối quan hệ giữa chúng, từ đó tạo ra quy trình vận hành nền. Nhờ công nghệ khai thác dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn, DSS có khả năng tự động đánh giá tình huống lũ, đưa ra gợi ý điều tiết thời gian thực. Các dịch vụ dựa trên vị trí giúp cảnh báo, hướng dẫn người dân trong vùng bị ảnh hưởng.
Ông Dũng cho biết, Việt Nam đã quan tâm xây dựng DSS từ nhiều năm trước và thực tế cho thấy công cụ này hỗ trợ hiệu quả trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và phòng chống thiên tai. Nhưng trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, Việt Nam cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước.

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhận định yêu cầu đảm bảo an toàn hồ đập đặt ra những thách thức hoàn toàn mới. Dù nhiều hồ như Cấm Sơn, Núi Cốc, Tả Trạch… đã phát huy tốt vai trò cắt giảm lũ, song hiệu quả tổng thể vẫn chưa đạt kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu do quy trình vận hành xây dựng trên chuỗi số liệu lịch sử không còn phù hợp trong điều kiện mưa lũ biến đổi nhanh và cực đoan.
Ông Phong đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển từ tư duy "quản lý hồ" sang quản lý rủi ro theo lưu vực, ưu tiên an toàn hạ du nhưng vẫn tối ưu dung tích phòng lũ. Việc nâng dung tích phòng lũ cần được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng linh hoạt khoảng chênh giữa mực nước dâng bình thường và mực nước lũ thiết kế.
Một nội dung quan trọng được các đại biểu nhiều lần nhấn mạnh là bài toán dữ liệu. Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số, chuyển đổi số chỉ thực sự hiệu quả khi dữ liệu "đúng – đủ – sạch – sống – thống nhất". Hiện Bộ đã gắn mã định danh cho khoảng một nửa trong số hơn 86.000 công trình thủy lợi, tiến tới chuẩn hóa cơ sở dữ liệu ngành và xây dựng phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung.
Tại diễn đàn, đại diện các đơn vị vận hành hồ đập tiếp tục phản ánh tình trạng dữ liệu phân tán, nhiều trạm quan trắc xuống cấp, thiết bị cũ, thiếu vốn bảo trì. Bắc Ninh và Quảng Ninh – hai địa phương có hệ thống hồ đập lớn – đề xuất Bộ xem xét hoàn thiện định mức kinh tế – kỹ thuật cho công tác quan trắc, bảo trì thiết bị và bổ sung đầu tư cho các hồ chưa được trang bị hệ thống theo dõi tự động.
Một định hướng lớn được Cục trưởng Nguyễn Tùng Phong công bố tại diễn đàn là Nhà nước sẽ không tiếp tục đầu tư dàn trải thiết bị như trạm đo, cảm biến, SCADA. Thay vào đó, các cơ quan quản lý sẽ "mua dịch vụ dữ liệu và dịch vụ ra quyết định" từ doanh nghiệp công nghệ – phù hợp với chủ trương xã hội hóa chuyển đổi số.
Nhiều doanh nghiệp hiện đã cung cấp dữ liệu dự báo, dữ liệu quan trắc và nền tảng phân tích phục vụ vận hành. Việc khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội, theo ông Phong, sẽ giúp ngành thủy lợi tận dụng nhanh công nghệ mới, giảm chi phí đầu tư và duy tu thiết bị.
Đỗ Hương