In bài viết

Tham gia của Việt Nam trong Chương trình hợp tác kinh tế GMS

28/03/2018 10:50

I. Tổng quan

Việt Nam tham gia tích cực Chương trình hợp tác kinh tế GMS ngay từ khi Chương trình này được thành lập vào năm 1992. Sự tham gia của Việt Nam mang nhiều kết quả tích cực về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo cũng như góp phần gia tăng liên kết kinh tế khu vực. Tính đến tháng 12/2016, các dự án hợp tác trong GMS tại Việt Nam có quy mô đạt 5,63 tỷ đô la, chiếm 29% tổng số khoản vay/trợ cấp của GMS. Trong đó, lĩnh vực giao thông chiếm 87%; các lĩnh vực khác: phát triển đô thị (7,9%), y tế và bảo trợ xã hội (2,7%), nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên (3,7%), công nghiệp và thương mại (0,4%), thuận lợi hoá thương mại và vận tải (0,2%).

Việt Nam đã tham gia vào nhiều sáng kiến và các lĩnh vực hợp tác khác nhau của hợp tác GMS, cụ thể: Hiệp định tạo thuận lợi giao thông qua biên giới (CBTA) các nước GMS; Nghiên cứu chiến lược ngành giao thông tiểu vùng; Xây dựng Khung chiến lược thúc đẩy thương mại và đầu tư; Diễn đàn Kinh doanh GMS; Nghiên cứu và Kế hoạch tổng thể khu vực về liên kết điện năng trong GMS; Hiệp định giữa các quốc gia về thương mại điện năng khu vực, Hiệp định thương mại Điện năng khu vực; Xây dựng Chiến lược Năng lượng tiểu vùng Mê-công; Phòng chống HIV/AIDS cho dân di cư tự do, Giáo dục phòng chống HIV/AIDS tại các khu vực vùng biên, và kiểm soát bệnh truyền nhiễm khu vực GMS; Nghiên cứu về xoá bỏ Ma tuý trong GMS; Chương trình xây dựng năng lực cho các cán bộ GMS theo Kế hoạch Phnôm Pênh về quản lý phát triển; Các chương trình hợp tác du lịch Khung chiến lược và kế hoạch hành động nhân lực GMS; Khung chiến lược môi trường và chương trình môi trường trọng điểm, bao gồm Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học; Xoá đói giảm nghèo và quản lý môi trường tại các lưu vực vùng sâu vùng xa; Mở rộng hợp tác tiểu vùng về nông nghiệp; v.v..,

II. Một số kết quả hợp tác cụ thể như sau:

1. Hợp tác giao thông vận tải

Hiện nay, Việt Nam là mắt xích quan trọng trong việc hình thành các hành lang kinh tế GMS và đã tham gia vào 3 tuyến hành lang kinh tế chính là: Bắc - Nam, Đông - Tây và hành lang ven biển phía Nam. Việc kết nối các tuyến hành lang qua lãnh thổ Việt Nam giúp Việt Nam tối đa hoá các lợi ích kinh tế thu được từ kết nối giao thông, tăng cường thương mại và đầu tư trong các vùng dọc theo các hành lang kinh tế.

Nhiều dự án giao thông đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như tuyến đường thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài (140 triệu USD do ADB tài trợ) đã đưa vào sử dụng tháng 11 năm 2005, bao gồm cả việc xây dựng hai trạm kiểm soát biên giới tại cửa khẩu biên giới Bà Vẹt và Mộc Bài. Dự án tài trợ hành lang Đông - Tây, đoạn đường từ Đông Hà - Lao Bảo (do ADB tài trợ 30 triệu USD) đã được hoàn thành năm 2005. Cùng với việc hoàn tất xây dựng hầm đường bộ Hải Vân và nâng cấp cảng Đà Nẵng do Nhật Bản tài trợ, cũng như việc hoàn thành xây dựng cầu quốc tế Mê-công thứ hai nối Mục-đa-hản và Sa-va-na-khẹt vào cuối năm 2006 đã thông tuyến giao thông của hành lang kinh tế Đông-Tây nối liền đường bộ từ Thái Lan - Lào -Việt Nam đi ra biển Đông. Một số dự án khác như tuyến hành lang phía bắc giá trị 75 triệu USD đoạn từ Thanh Hoá nối sang Lào và Thái Lan, tuyến hành lang phía Nam giá trị 25,5 triệu USD đoạn quốc lộ 80 và 63 nối Việt Nam và Cam-pu-chia, v.v. Dự án Hành lang Côn Minh - Hải Phòng và Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai được phê duyệt vào tháng 12/2015 và hoàn thành vào tháng 5/2010. Đường cao tốc dài nhất của Việt Nam, tuyến Nội Bài - Lào Cai, khai trương vào tháng 9/2014 và là một phần trong dự án hành lang kinh tế Bắc-Nam do ADB hỗ trợ, đã mang lại giá trị kinh tế lớn. Đường cao tốc kết nối thủ đô Hà Nội với biên giới Trung Quốc tại Lào Cai, dài 244 km về phía tây bắc, giảm thời gian đi lại từ 7 giờ xuống còn 3 giờ.

Việc thực hiện Hiệp định Giao thông xuyên biên giới GMS (CBTA) đã mang lại các kết quả tích cực, cho phép giải phóng nhanh các loại hàng hoá thông thường và rút ngắn thời gian xử lý thông quan cho người, phương tiện và hàng hoá.Việt Nam đã thông qua Hiệp định CBTA vào năm 1999, và tới nay đã thông qua tất cả các phụ lục của Hiệp định. Từ năm 2012, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cấp phép cho các phương tiện của nhau dọc tuyến Côn Minh – Hà Nội – Hải Phòng và Hà Nội – Nam Ninh – Thâm Quyến. Trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây, Việt Nam, Thái Lan và Lào đã ký Bản ghi nhớ mở rộng tuyến đường nối tới thủ đô của ba nước và hai cảng biển lớn là Laem Chabang và Hải Phòng.

Hiện nay, Việt Nam và Lào đang nỗ lực triển khai thực hiện đầy đủ mô hình kiểm tra một cửa một lần dừng tại cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo - Đen sa vẳn. Đối với Cam-pu-chia và Trung Quốc, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tích cực phối hợp, trao đổi và thảo luận nhiều lần với cả 2 nước tuy nhiên hiện nay còn một số khó khăn về thủ tục do phía bạn nên chưa thể triển khai được Hiệp định này.

2. Hợp tác năng lượng

Trong lĩnh vực điện năng, Việt Nam tham gia ký kết và thực hiện Kế hoạch Tổng thể Khu vực về liên kết điện năng trong GMS; Hiệp định giữa các Quốc gia về Thương mại điện năng khu vực; Chiến lược Năng lượng tiểu vùng Mê-công; Thương mại điện năng tiểu vùng Mê-công mở rộng... Hiệp định thương mại điện năng tiểu vùng giữa Việt Nam với các nước tiểu vùng Mê-công đã được ký kết là yếu tố rất quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu điện năng của Việt Nam trong tương lai.

Hợp tác phát triển năng lượng GMS giúp Việt Nam xác định, chuẩn bị và đầu tư cho các sáng kiến ưu tiên nhằm thúc đẩy thương mại điện năng, cũng như thiết lập các thể chế theo định hướng đảm bảo an ninh năng lượng trong Tiểu vùng Mê-công mở rộng. Ngoài ra, việc tham gia các cuộc họp của Uỷ ban điều phối thương mại năng lượng khu vực GMS cũng giúp Việt Nam cập nhật tình hình phát triển thị trường và kế hoạch ngành năng lượng của các nước GMS, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật từ ADB và phối hợp hài hoà chính sách với các nước GMS.

Ngoài ra, hợp tác GMS hỗ trợ Việt Nam thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng, từ đó bổ sung cho đầu tư của khu vực công và bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh nhu cầu về năng lượng trong nước tăng mạnh. Việt Nam đã phối hợp với các nước láng giềng GMS để tận dụng các thoả thuận thương mại về điện trong tiểu vùng; chia sẻ thông tin về thăm dò, sản xuất và truyền tải các nguồn năng lượng. Việt Nam cũng mở rộng việc tiếp cận điện năng tới các vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, và tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng nguồn cung cấp năng lượng.

3. Hợp tác viễn thông

Trong thời gian qua, Việt Nam tham gia tích cực vào các nỗ lực cải thiện mạng viễn thông tiểu vùng và thu hút vốn đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này. Cùng với các nước GMS khác, Việt Nam có nhiều đóng góp trong nghiên cứu xây dựng năng lực và phát triển chính sách ngành Viễn thông GMS.

Hiện Việt Nam đang cùng các nước triển khai Kế hoạch hành động Viêng Chăn trong lĩnh vực viễn thông GMS. Sự tham gia của Việt Nam hiện nay tập trung vào việc xây dựng mạng Siêu xa lộ thông tin GMS. Siêu xa lộ này cung cấp đường truyền viễn thông băng rộng gắn kết 6 quốc gia GMS. Các dịch vụ cơ bản sẽ được khai thác cho các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội như thương mại điện tử, chính phủ điện tử và giáo dục điện tử. Việt Nam cũng tham gia vào việc phát triển công nghệ giao tiếp và thông tin trong các địa bàn nông thôn, xây dựng năng lực công nghệ thông tin, lập kế hoạch cho sự phát triển viễn thông nhằm định hướng cho các sáng kiến hợp tác giữa các nước GMS trong tương lai.

4. Hợp tác phát triển nguồn nhân lực (y tế, giáo dục và đào tạo, dạy nghề và di cư)

Các nước GMS coi việc kiểm soát các bệnh dịch truyền nhiễm xuyên biên giới như SARS, cúm gia cầm, HIV/AIDS và các bệnh dịch khác như bại liệt, sốt rét và lao là một trong những ưu tiên hàng đầu của hợp tác y tế. Việt Nam tham gia dự án Hỗ trợ kỹ thuật (HTKT) của ADB cho các nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Dự án này đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần tăng cường năng lực ngăn ngừa lan truyền dịch bệnh xuyên biên giới và phòng chống các bệnh truyền nhiễm. Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia nghiên cứu các giải pháp xoá bỏ ma tuý trong GMS.

Chương trình Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực Phnom-pênh của tiểu vùng Mê-công mở rộng (PPP) cung cấp kiến thức cho các cán bộ nhà nước cấp trung và cấp cao của các nước GMS về chính sách, xây dựng kế hoạch và quản lý phát triển. Các khoá tập huấn PPP chú trọng vào những nhu cầu đào tạo cấp thiết của các cơ quan hành chính Việt Nam và các nước GMS, các lĩnh vực đào tạo gồm quản lý mạng lưới cơ sở hạ tầng, thiết kế và thẩm định dự án, phát triển chính sách thương mại và quản lý giáo dục, lãnh đạo trong phát triển v.v… Trong khuôn khổ Chương trình này, Việt Nam cử cán bộ tham dự các khóa đào tạo ngắn hạn, tập trung vào những nhu cầu đào tạo cấp thiết của các cơ quan hành chính Việt Nam và các nước GMS, bao gồm quản lý mạng lưới cơ sở hạ tầng, thiết kế và thẩm định dự án, phát triển chính sách thương mại và quản lý giáo dục, lãnh đạo trong phát triển v.v…

Việt Nam cũng tham gia xây dựng Khung chiến lược và kế hoạch hành động nhân lực GMS giai đoạn 2009-2012, và giai đoạn 2013-2017, với mục tiêu thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực một cách bền vững, hỗ trợ triển khai các sáng kiến vùng về hợp tác nguồn nhân lực và xử lý các vấn đề xuyên biên giới về nhân lực giữa các nước GMS. Cùng với các đối tác GMS, Việt Nam đang tập trung nỗ lực vào công cuộc giảm nghèo và bình đẳng giới nhằm hỗ trợ những lao động dễ tổn thương được hưởng lợi từ các chương trình đào tạo quốc gia, đồng thời tăng cường việc bảo vệ người lao động di cư, cả trong nước và qua biên giới.

5. Hợp tác trong lĩnh vực môi trường

Trong lĩnh vực môi trường và tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam tham gia Chương trình Môi trường trọng điểm (CEP) cả giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Chương trình này có mục tiêu giải quyết các vấn đề môi trường trong quá trình phát triển kinh tế tiểu vùng. Chương trình CEP được triển khai thông qua Trung tâm Điều hành Môi trường GMS tại Băng Cốc từ tháng 4 năm 2006 và hiện đang thực hiện các hoạt động: đánh giá mức độ bền vững môi trường của các chiến lược phát triển và các kế hoạch đầu tư ưu tiên của các hành lang kinh tế GMS và của lĩnh vực ưu tiên; triển khai các hoạt động tại các điểm thử nghiệm được xác định trong Sáng kiến Hành lang Bảo tồn Đa dạng Sinh học; thể chế hoá các thủ tục và hệ thống đánh giá hoạt động môi trường tại các quốc gia GMS.

Kể từ năm 2012, CEP đã hỗ trợ Bộ Tài nguyên Môi trường tiến hành các nghiên cứu đánh giá chiến lược về môi trường, tập trung vào khu vực đồng bằng sông Hồng. Theo đó, ADB đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam triển khai các báo cáo về môi trường tại khu vực đồng bằng sông Hồng, phục vụ trực tiếp cho việc quy hoạch phát triển khu vực. Ngoài ra, ADB cùng Viện môi trường Stockholm cũng hỗ trợ Bộ Công Thương tiến hành thí điểm nghiên cứu đánh giá môi trường trong các quy hoạch ngành điện và từ giữa năm 2014, ADB đã bắt đầu chính thức hỗ trợ Việt Nam điều chỉnh quy hoạch ngành điện giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030.Từ năm 2014, hợp tác GMS cũng triển khai sáng kiến vận tải xanh, với các dự án thí điểm ở Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm nghiên cứu việc hạn chế lượng khí thải các-bon từ hoạt động vận tải. ADB cũng hỗ trợ việc thiết lập hành lang đa dạng sinh học qua biên giới giữa tỉnh Cao Bằng (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc). Theo CEP 2012-2016, trọng tâm của chương trình này là phục hồi, bảo vệ và quản lý bền vững các hành lang sinh học với sự tham gia của các cộng đồng dân cư.

6. Hợp tác nông nghiệp

Việt Nam tham gia thực hiện Khung Chiến lược Hợp tác GMS về nông nghiệp và Chương trình Hỗ trợ nông nghiệp trọng tâm (CASP) các giai đoạn 2006-2010 và 2011-2020 với sự hỗ trợ của ADB. Việc thực hiện Khung chiến lược mang lại lợi ích cho Việt Nam nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư qua biên giới về nông nghiệp, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và chia sẻ thông tin, thực hiện các chương trình hợp tác về nâng cao năng lực, thiết lập cơ chế phản hồi khẩn cấp trong các tình huống khủng hoảng nông nghiệp và hỗ trợ các nước GMS trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các mối liên kết thể chế và cơ chế hợp tác GMS trong lĩnh vực nông nghiệp.

Từ năm 2015, Việt Nam đã thành lập đơn vị hỗ trợ ban thư ký quốc gia, đặt tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và ký thoả thuận hợp tác với ADB vào tháng 2/2015. Việt Nam hiện có 8 dự án nông nghiệp với số vốn 310.000 USD, bao gồm dự án: (i) Hỗ trợ phụ nữ phát triển hệ thống nông nghiệp xanh và tiếp cận thị trường ở Ba Vì, Hà Nội; (ii) Xây dựng các cơ sở trồng rau kiểu mẫu tiêu chuẩn IFOAM tại Hoài Đức, Hà Nội; (iii) Tổ chức diễn đàn chính sách về sản xuất gạo ít các bon; (iv) Sản xuất lúa bền vững tại đồng bằng sông Hồng trên cơ sở giảm lượng phân bón và khí thải nhà kính; (v) Nâng cao an toàn thực phẩm, giá trị gia tăng và bảo vệ môi trường của các hộ sản xuất nhỏ tại Việt Nam trong lĩnh vực nuôi gà; (vi) Đào tạo kỹ năng sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp cho phụ nữ Khơ-me ở tỉnh Sóc Trăng; (vii) Nghiên cứu áp dụng các sản phẩm vi sinh vào nông nghiệp organic ở Việt Nam; (vi) Đào tạo các chuyên gia về gạo.

Việt Nam đã phối hợp với các đối tác của GMS triển khai nhiều biện pháp để tăng năng suất cho ngành nông nghiệp; ưu tiên cho những cải cách quan trọng nhằm đạt được sự tăng trưởng ổn định trong sản lượng nông nghiệp, từ đó đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Cũng như các nước GMS khác, Việt Nam chú trọng phát triển giao thông nông thôn và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường của người dân nhằm cải thiện sinh kế nông nghiệp và nông thôn.

7. Hợp tác du lịch

Các nước tiểu vùng Mê-công mở rộng đã hình thành Chiến lược phát triển Du lịch 10 năm và hình thành Kế hoạch hành động năm về Du lịch tiểu vùng. Chiến lược này nhấn mạnh vào việc phát triển GMS trở thành điểm đến du lịch của thế giới, xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến du lịch, tăng cường và nâng cao các tiêu chuẩn quản lý tài nguyên thiên nhiên và văn hoá, đồng thời thúc đẩy du lịch dựa vào cộng đồng và vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Năm 2011, Việt Nam cũng các thành viên GMS đã điều chỉnh Chiến lược phát triển du lịch GMS vùng theo hướng: (i) Phát triển nguồn nhân lực du lịch; (ii) Phát triển du lịch vì người nghèo, du lịch bền vững; (iii) Phát triển sản phẩm và xúc tiến quảng bá du lịch GMS.

Việt Nam cũng đóng góp tích cực vào việc hình thành “Chiến lược ngành du lịch GMS giai đoạn 2016-2025” nhằm xây dựng khu vực GMS là một điểm đến du lịch có tính cạnh tranh hơn, phát triển cân bằng và bền vững hơn; tập trung vào 5 hướng triển khai chiến lược là: (i) Phát triển nhân lực du lịch; (ii) Cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch; (iii) Nâng cao trải nghiệm và chất lượng dịch vụ dành cho du khách; (iv) Các chiến lược ma-két-ting sáng tạo; (v) Thúc đẩy du lịch liên kết ở quy mô vùng.

Việt Nam tham gia tích cực trong các dự án du lịch như: phát triển ngành Du lịch tại Khu vực Tam giác phát triển Xanh Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam và Vùng du lịch châu thổ sông Hồng. Các nước ven sông Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia cũng tham gia vào Dự án phát triển tổng thể Du lịch Mê Công GMS với các nội dung: cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch; phát triển du lịch dựa vào cộng đồng và vì người nghèo; hợp tác tiểu vùng về du lịch bền vững; và hỗ trợ triển khai và nâng cao năng lực thể chế hợp tác GMS. Việt Nam cũng tham gia dự án “Phát triển du lịch bền vững GMS” với 3 giai đoạn, bao gồm: Giai đoạn 1: tổng vốn cho Việt Nam là 8,5 triệu USD, giai đoạn 2 là 10 triệu USD, giai đoạn 3 vừa ký Hiệp định với ADB ngày 25/11/2014 với tổng vốn đầu tư dự án là 50 triệu USD. Dự án Phát triển Du lịch Bến sông Mỹ Tho đã giúp xây dựng một công viên tại Tiền Giang, gia cố kè sông và bến tàu nổi, đồng thời xây dựng thêm một nhà ga hành khách. Ngoài ra, Việt Nam cùng các nước GMS đã thiết lập Văn phòng điều phối du lịch Mê-công đặt tại Băng Cốc, Thái Lan.

8. Hợp tác xúc tiến thương mại và đầu tư

Viêt Nam tích cực tham gia hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của GMS, cụ thể: Tham gia các Diễn đàn doanh nghiệp GMS, Diễn đàn đầu tư GMS, Diễn đàn thương mại GMS; Thực hiện Khuôn khổ chiến lược tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư (SFA-TFI). Bên cạnh đó, với việc tham gia xây dựng Khung đầu tư tiểu vùng, Việt Nam có cơ hội quảng bá để thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực xúc tiến đầu tư của Việt Nam.

(Nguồn: Bộ Ngoại giao)