
Tiêu thụ gắn với chuẩn hóa quy trình sản xuất không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản mà còn là tiền đề để mở rộng thị trường nội địa - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Hiện nay, nhiều tỉnh thành đã xây dựng hệ thống chuỗi cung ứng nông sản an toàn, phối hợp với các hợp tác xã, doanh nghiệp nhằm kiểm soát ngay từ đầu vào đến phân phối, giúp đảm bảo sản phẩm rau củ đạt tiêu chuẩn an toàn và ổn định về cung ứng cho thị trường nội địa. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thay đổi sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất theo chuỗi liên kết lớn hơn.
Những hoạt động này không chỉ diễn ra ở những địa phương thuần nông mà ngay cả ở những nơi tỷ lệ đô thị hóa rất cao cũng được áp dụng. Điển hình như tại Hà Nội, những chuỗi sản xuất an toàn như Hợp tác xã rau Văn Đức (Bát Tràng, Hà Nội) cung cấp hàng chục nghìn tấn rau mỗi năm theo tiêu chuẩn VietGAP, giúp nông sản đạt chất lượng cao và được người tiêu dùng trong nước tin dùng.
Hay như tại Quảng Ninh, ngành trồng trọt cũng chuyển hướng mạnh từ sản xuất theo kinh nghiệm sang chuẩn hóa theo yêu cầu thị trường. Theo ông Trần Văn Thực, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Quảng Ninh, ứng dụng khoa học công nghệ là giải pháp mang tính căn cơ để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm trồng trọt.
Nhờ đó, nhiều sản phẩm trồng trọt đã tạo dựng được thương hiệu và chỗ đứng vững chắc trên thị trường như vải chín sớm Phương Nam, vải chín sớm Đông Triều, na dai, chè Ngọc Thúy, trà hoa vàng, lúa chất lượng cao… Cùng với giống, cơ giới hóa được đẩy mạnh với tỷ lệ ứng dụng máy móc trong trồng trọt đạt trên 80%. Riêng tại các vùng sản xuất tập trung, các khâu làm đất và thu hoạch đã cơ bản được cơ giới hóa hoàn toàn.
Hiệu quả từ ứng dụng khoa học công nghệ thể hiện rõ qua các chỉ tiêu sản xuất. Năng suất lúa bình quân của Quảng Ninh hiện đạt trên 51 tạ/ha, tăng gấp đôi so với những năm 1990, năng suất ngô đạt trên 45 tạ/ha. Sản lượng lương thực toàn tỉnh duy trì ở mức trên 216.000 tấn/năm, bảo đảm an ninh lương thực trong mọi điều kiện. Đặc biệt, giá trị sản xuất bình quân trên 1ha đất trồng trọt đạt trên 110 triệu đồng/năm, tăng gấp 5 lần so với hai thập kỷ trước.
Cùng với nâng cao năng suất, tỉnh chú trọng phát triển trồng trọt theo hướng an toàn, bền vững. Các quy trình sản xuất tiên tiến như VietGAP, IPHM đã được áp dụng trên hơn 11.200 ha cây trồng, góp phần giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Toàn tỉnh hiện có 50 vùng sản xuất được cấp mã số vùng trồng với diện tích trên 1.030 ha, đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.
Thực tế cũng cho thấy, không kiểm soát chặt chất lượng ngay từ khâu sản xuất gây ra rủi ro uy tín và an toàn thực phẩm, làm giảm niềm tin của người tiêu dùng vào sản phẩm trong nước, đặc biệt khi một số sản phẩm gắn mác "an toàn" nhưng không đạt chuẩn thực sự. Điều này nhấn mạnh nhu cầu cải thiện pháp lý và giám sát thực thi nhằm bảo vệ cả người sản xuất chân chính và người tiêu dùng.
Việc kết nối tiêu thụ gắn với chuẩn hóa quy trình sản xuất không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản mà còn là tiền đề để mở rộng thị trường nội địa. Mô hình sản xuất chuỗi liên kết, hợp tác với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, giúp nông dân tiếp cận kỹ thuật và thị trường ổn định hơn so với sản xuất manh mún truyền thống.

Diện tích gieo trồng vụ Đông tại phía Bắc đạt khoảng 380.000 ha - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sản xuất nông sản sạch gắn với chuỗi liên kết tiêu thụ là hướng đi cốt lõi để nâng cao giá trị cây vụ Đông và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Thực tế cho thấy, tại các siêu thị và kênh phân phối hiện đại, nông sản đạt chuẩn an toàn và truy xuất nguồn gốc ngày càng được ưa chuộng hơn nhờ độ tươi, chất lượng cao và phù hợp với thói quen tiêu dùng đô thị. Người tiêu dùng ngày càng ưu tiên sản phẩm có chất lượng, minh bạch nguồn gốc và lợi ích cho sức khỏe, thay vì chỉ quan tâm tới hình thức như trước.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, kiểm soát sản xuất và truy xuất nguồn gốc hiện không chỉ đặt ra với nông sản xuất khẩu hay phân khúc cao cấp, mà cả thị trường nội địa.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Trồng trọt, trong đó có Điều 64 về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, phù hợp hơn với thực tiễn. Khi các quy định này có hiệu lực, việc xây dựng và quản lý mã số vùng trồng sẽ được triển khai bài bản hơn, làm nền tảng cho xuất khẩu chính ngạch, đồng thời nâng cao chất lượng và tính minh bạch của nông sản tiêu thụ trong nước.
Theo bà Hương, nhiều nghị định thư xuất khẩu sang Trung Quốc tiếp tục được chuẩn hóa đối với các mặt hàng như chuối, dưa hấu, mít; trong khi thị trường Australia đã chính thức mở cửa cho bưởi Việt Nam. Đây là tín hiệu tích cực để ngành trồng trọt mở rộng thị trường trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, đánh giá chung về vụ Đông năm nay tại khu vực phía Bắc, bà Hương cho biết diện tích gieo trồng đạt khoảng 380.000 ha, trong bối cảnh dư địa đất đai vẫn còn lớn. Định hướng của ngành là xác lập vụ đông như một vụ sản xuất chính, góp phần tăng giá trị trên đơn vị diện tích, nâng thu nhập cho nông dân và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương.
Đỗ Hương