In bài viết

Thiết kế cơ chế EPR theo hướng kinh tế tuần hoàn, không hành chính hóa

(Chinhphu.vn) - Chiều 24/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (Dự thảo Nghị định), đặc biệt là nội dung liên quan đến thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR).

24/12/2025 18:47
Thiết kế cơ chế EPR theo hướng kinh tế tuần hoàn, không hành chính hóa- Ảnh 1.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Phó Thủ tướng nêu rõ, quy định về tái chế, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu không thể hiểu đơn thuần là chôn lấp hay tiêu hủy như thông thường. Trọng tâm cốt lõi ở đây là kinh tế tuần hoàn, là tái chế để biến rác thải thành tài nguyên.

Theo đó, việc ban hành chính sách mới phải tôn trọng các quy định pháp luật nhưng cần đánh giá kỹ lưỡng tác động thực tế, có lộ trình thực hiện phù hợp. Phó Thủ tướng lưu ý cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết, tuyệt đối tránh tình trạng ban hành chính sách gây ra những cú sốc đột ngột, khiến doanh nghiệp gãy đổ chuỗi sản xuất hay gặp khó khăn trong tuân thủ.

Về kỹ thuật xây dựng văn bản, cơ quan soạn thảo phải bao quát được các đối tượng chịu sự điều chỉnh, cập nhật những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn mà Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có thể chưa kịp thời bao phủ để đề xuất cơ chế phù hợp.

Đánh giá cao sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế và trong nước, Phó Thủ tướng khẳng định đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, quá trình xây dựng và hoàn thiện Nghị định cần sự tham vấn rộng rãi, đảm bảo sự đồng thuận, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước.

Bổ sung quy định hỗ trợ tài chính cho hoạt động tái chế, xử lý chất thải

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Dự thảo Nghị định được xây dựng theo nguyên tắc không làm thay đổi chính sách hiện hành; kế thừa và tích hợp các quy định đã có; quy định cụ thể một số trường hợp đặc thù phát sinh trong thực tiễn; bổ sung, hoàn thiện quy dịnh về cơ chế hỗ trợ tài chính từ nguồn đóng góp của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu để tái chế sản phẩm, bao bì, xử lý chất thải.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Dự thảo Nghị định quy định bổ sung các nội dung liên quan đến việc hỗ trợ hoạt động tái chế sản phẩm, bao bì, xử lý chất thải (gồm: đối tượng, hình thức hỗ trợ; nguyên tắc quản lý, cách thức phân bổ tiền hỗ trợ; các bước triển khai thực hiện hỗ trợ và việc giải ngân tiền hỗ trợ).

Thiết kế cơ chế EPR theo hướng kinh tế tuần hoàn, không hành chính hóa- Ảnh 2.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành báo cáo - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Trong đó, các gói hỗ trợ tái chế được xác định theo từng loại sản phẩm, bao bì, trên cơ sở năng lực và công suất tái chế thực tế của các cơ sở tái chế, nhằm huy động tối đa sự tham gia của doanh nghiệp tái chế vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân có năng lực phù hợp; qua đó thúc đẩy phát triển mạng lưới tái chế trong nước theo hướng đa dạng, cạnh tranh và minh bạch, góp phần phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Các nguồn kinh phí hỗ trợ xử lý chất thải được phân bổ cho các địa phương theo các tiêu chí định lượng, rõ ràng như quy mô dân số, diện tích khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn... UBND cấp tỉnh chủ động quyết định việc sử dụng kinh phí được phân bổ cho các hoạt động xử lý chất thải trên địa bàn và chịu trách nhiệm toàn diện về việc sử dụng kinh phí theo quy định của pháp luật.

Dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể các nội dung liên quan đến quản lý, giám sát thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR) gồm: Hệ thống thông tin EPR quốc gia; quy định việc tổ chức quản lý, giám sát, hỗ trợ việc thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định cụ thể theo thẩm quyền đối với quy chế tổ chức hoạt động của Hội đồng EPR và đơn vị giúp việc Hội đồng EPR.

Làm rõ khái niệm, minh bạch cơ chế, gắn với năng lực tái chế

Tại cuộc họp, các đại biểu cơ bản thống nhất với Dự thảo Nghị định nhưng nhấn mạnh cần đảm bảo tính đồng bộ pháp lý và khả thi thực tiễn.

Đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Vietnam), Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA)… kiến nghị làm rõ các định nghĩa về thu gom, công nhận sản phẩm sau tái chế và minh bạch hóa cơ chế quản lý, sử dụng quỹ EPR. Đặc biệt, cần quy định nguyên tắc tính phí FS (đóng góp tái chế) rõ ràng, tránh tăng đồng thời tỷ lệ tái chế bắt buộc và phí FS trong cùng một năm; sớm có chính sách hỗ trợ hình thành hạ tầng tái chế trong nước để doanh nghiệp thực thi hiệu quả; mở rộng ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất có sáng kiến giảm thiểu rác thải (giảm trọng lượng chai, dùng nhựa tái chế...).

TS. Phùng Chí Sỹ (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam) nhấn mạnh cần làm rõ định nghĩa "tái chế", phân định rạch ròi giữa "chất thải" và "phế liệu" để tránh vướng mắc pháp lý, đồng thời khơi thông cơ chế chi từ quỹ EPR hỗ trợ doanh nghiệp.

Thiết kế cơ chế EPR theo hướng kinh tế tuần hoàn, không hành chính hóa- Ảnh 3.

Đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam phát biểu - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Về phía địa phương, ông Phạm Nam Sơn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Đà Nẵng đánh giá cao Dự thảo Nghị định đã có những quy định miễn trừ hợp lý cho doanh nghiệp nhỏ (doanh thu dưới 30 tỷ đồng) và cho phép nhiều hình thức lựa chọn thực hiện nghĩa vụ EPR. Tuy nhiên, các quy định về công thức tính toán, hồ sơ chứng từ, kiểm toán khí thải và tài chính mang tính kỹ thuật rất cao, nên cần có tài liệu hướng dẫn chi tiết và các chương trình tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật cụ thể.

Lo ngại vấn đề "lệch pha" giữa yêu cầu pháp lý và năng lực thực tế, ông Phạm Nam Sơn cho rằng, hệ thống tái chế tại các địa phương còn hạn chế về công nghệ, chưa đáp ứng được nhu cầu xử lý các sản phẩm công nghệ cao như pin, thiết bị điện tử hay phương tiện giao thông. Do đó, việc triển khai Nghị định cần sự đồng bộ với quy hoạch phát triển ngành tái chế để tránh tình trạng "có quy định nhưng không có nơi xử lý".

Liên quan đến quy định "phương tiện giao thông thải bỏ chưa phá dỡ thì chưa coi là chất thải", Phó Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng Lê Anh Quân đề nghị cần xem xét lại kỹ lưỡng, vì tiềm ẩn rủi ro lớn về môi trường do rò rỉ các chất thải nguy hại như dầu nhớt, axit. TP. Hải Phòng kiến nghị bổ sung cơ chế phân bổ nguồn lực xuống tận UBND cấp xã để đảm bảo kinh phí cho cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ thu gom, xử lý.

Các địa phương cũng đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ dữ liệu từ Hệ thống thông tin EPR quốc gia; đẩy mạnh chuyển đổi số toàn trình quy trình EPR nhằm đảm bảo tính minh bạch, khách quan trong quản lý.

Đồng tình với ý kiến này, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi đề nghị quy định rõ danh mục thông tin chia sẻ giữa cơ quan Thuế, Hải quan và ngành môi trường ngay trong Nghị định để đảm bảo tính khả thi. Đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương kiến nghị loại bỏ quy định về Hội đồng EPR và trách nhiệm của chủ phương tiện giao thông ra khỏi phạm vi điều chỉnh do chưa phù hợp cơ sở pháp lý. Đại diện Bộ Công an cảnh báo nguy cơ "hợp thức hóa" hàng nhập lậu thông qua quy định cho phép sử dụng bao bì thải bỏ của nhà sản xuất khác để tái chế.

Xây dựng cơ chế EPR minh bạch, khả thi, từng bước thay đổi hành vi tiêu dùng

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp thu đầy đủ các ý kiến đóng góp, hoàn thiện Dự thảo Nghị định.

Phó Thủ tướng khẳng định tinh thần xuyên suốt trong hoàn thiện Dự thảo Nghị định là không cầu toàn về hình thức, nhưng chính sách ban hành phải triển khai được ngay và vận hành thực chất. Theo đó, không thể tiếp cận vấn đề theo cách làm hành chính, tư duy "ngồi trong phòng máy lạnh", mà phải xuất phát từ thực tiễn, thiết kế cơ chế vận hành cụ thể, trả lời rõ câu hỏi chính sách có thể thực thi ngay hay không.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, chỉ khi xác định rõ đối tượng, phạm vi và xây dựng được chính sách cụ thể, khả thi thì việc triển khai mới thực sự thể hiện được tính chất "cá biệt, đặc biệt" của nhóm chính sách về EPR. Đó là, bên cạnh các chính sách hiện hành, nhóm chính sách về EPR không hoàn toàn mang tính bắt buộc mà mang tính đóng góp, hỗ trợ thêm cho hoạt động xử lý chất thải không phải là kinh phí bao trùm toàn bộ chi phí bắt buộc cho tái chế, tiêu hủy.

Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường và khung chính sách môi trường hiện hành đã bao quát đầy đủ các loại chất thải như chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải nhựa, chất thải nguy hại với các chính sách chung. Còn Dự thảo Nghị định quy định danh mục các đối tượng áp dụng EPR và sẽ được mở rộng theo thời gian, tập trung vào những loại hình chất thải trên thực tế rất khó thực hiện, có tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn đến môi trường, nguy hại và đặc biệt khó khăn trong khâu thu gom.

Theo Phó Thủ tướng, mục tiêu của việc triển khai EPR là hướng các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu và người tiêu dùng tới việc tiếp cận các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường, thông qua sự tham gia trực tiếp của nhà sản xuất và nhà nhập khẩu. Về dài hạn, chính sách nhằm từng bước thay đổi nhận thức, tư duy, thúc đẩy cải tiến để loại bỏ dần các sản phẩm không thân thiện, tiến tới thu hẹp và giảm dần danh mục các sản phẩm thuộc diện phải áp dụng EPR.

Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một cơ chế EPR khả thi, minh bạch, từng bước thay đổi hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng, qua đó bảo vệ môi trường một cách thực chất.

Sử dụng hiệu quả nguồn tiền cho các khâu thu gom, tái chế và xử lý

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu trọng tâm là tháo gỡ các vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện để nguồn tiền EPR đã được doanh nghiệp tự nguyện đóng góp có thể được giải ngân và phát huy hiệu quả.

Thiết kế cơ chế EPR theo hướng kinh tế tuần hoàn, không hành chính hóa- Ảnh 4.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu trọng tâm là tháo gỡ các vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện để nguồn tiền EPR đã được doanh nghiệp tự nguyện đóng góp có thể được giải ngân và phát huy hiệu quả - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Theo Phó Thủ tướng, cần làm rõ điểm nghẽn đang nằm ở khâu quản lý đối tượng hay ở khâu thu gom, nhất là trong bối cảnh sản phẩm đã đến tay người tiêu dùng thì việc khuyến khích họ tự nguyện hoàn trả khi hết vòng đời là thách thức lớn nhất.

Để cơ chế EPR vận hành thực chất, không dừng ở quy định trên giấy, chúng ta phải xác định đúng phạm vi, đúng đối tượng, đồng thời tính đúng và đủ trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu ngay từ khi hàng hóa được sản xuất, nhập khẩu và đưa ra thị trường.

Dù đây là bài toán khó nhưng hoàn toàn có thể giải quyết nếu có cơ chế phù hợp, bởi nguồn lực tài chính đã sẵn có. Chính sách cần vừa thể hiện trách nhiệm, vừa sử dụng công cụ tài chính để tạo động lực hành vi. Chi phí xử lý phải được tính ngay từ đầu và phân bổ hợp lý cho toàn bộ chuỗi, đặc biệt là khâu thu gom, qua đó khuyến khích người tiêu dùng chủ động đưa sản phẩm đã qua sử dụng đến đúng điểm thu hồi để tái chế, xử lý.

Cơ chế tài chính cần bảo đảm dòng tiền đóng góp được sử dụng hiệu quả cho các khâu thu gom, tái chế và xử lý, nhất là những công đoạn khó, nặng nhọc, đồng thời tách bạch rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu chính ngạch với các vấn đề như hàng hóa dư thừa, nhập lậu để tránh làm ách tắc chính sách.

Nguồn tiền được hình thành do đóng góp của các doanh nghiệp để thực hiện EPR phải được quản lý theo nguyên tắc tự nguyện – công khai – minh bạch, và không được hành chính hóa như tiền ngân sách. Vì vậy Nhà nước không ban hành định mức, đơn giá cứng nhắc, không tổ chức bộ máy mới để quản lý và cũng không áp đặt quyết định chi tiêu thay cho doanh nghiệp.

Nguyên tắc xuyên suốt là "ai đóng tiền thì người đó phải được tham gia quyết định và giám sát việc sử dụng tiền, thông qua một hội đồng do chính các doanh nghiệp đóng góp, cùng các chủ thể liên quan như đơn vị tái chế, xử lý", với sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước. Trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng, hội đồng này sẽ quyết định việc sử dụng nguồn tiền sao cho hiệu quả nhất, bảo đảm công khai, minh bạch, kể cả cho các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng. Nếu làm tốt, cơ chế này sẽ tạo động lực để doanh nghiệp chủ động cải tiến, giảm dần sản phẩm thuộc diện EPR, đồng thời hình thành sự liên kết hiệu quả giữa các khâu sản xuất – thu gom – tái chế – xử lý.

Gắn trách nhiệm của doanh nghiệp, người tiêu dùng với vòng đời sản phẩm

Việc xây dựng chính sách cần tận dụng các lực lượng thu gom sẵn có, phân định rõ trách nhiệm theo từng loại sản phẩm; đối với những loại chất thải Việt Nam chưa đủ năng lực xử lý, phải quy định rõ trách nhiệm đưa trở lại nhà sản xuất. Trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và người tiêu dùng cần được tính toán ngay từ đầu vòng đời sản phẩm, đưa chi phí xử lý, tái chế vào giá hàng hóa, qua đó tạo động lực để người sử dụng tự nguyện hoàn trả sản phẩm khi thải bỏ.

Phó Thủ tướng cũng dẫn kinh nghiệm quốc tế, theo đó chi phí xử lý, tái chế được tính sẵn trong giá sản phẩm; khi hết vòng đời, người sử dụng buộc phải hoàn trả đúng nơi quy định, nếu không sẽ chịu chi phí cao hơn hoặc là hành vi vi phạm pháp luật. Cách làm này biến việc trả lại sản phẩm thành hành vi tự nguyện, hợp lý và dễ thực thi, là hướng Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng hiệu quả, khả thi hơn.

Phó Thủ tướng lưu ý phải quy định rõ trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu trong cơ chế thực hiện EPR, để xác định nghĩa vụ tài chính gắn với lượng hàng hóa đưa ra thị trường. Nguyên tắc là mỗi sản phẩm chỉ gắn với một chủ thể chịu trách nhiệm. Trường hợp nhà sản xuất đồng thời là nhà phân phối thì nhà sản xuất chịu trách nhiệm. Trường hợp nhà nhập khẩu nhập khẩu sản phẩm của nhiều nhà sản xuất thì nhà nhập khẩu phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ và phân bổ trách nhiệm với các nhà sản xuất liên quan.

Mọi quy định phải được thiết kế rõ ràng, minh bạch và đưa thẳng vào nghị định, giúp việc thu và quản lý nguồn lực tài chính trở nên rõ ràng, khả thi, tránh tình trạng ban hành chính sách nhưng không xác định được đối tượng chịu trách nhiệm, không để phát sinh cách hiểu khác nhau trong quá trình thực hiện.

Minh Khôi