In bài viết

Thời gian thực hiện hợp đồng có gồm thời gian bảo hành không?

(Chinhphu.vn) - Thời gian thực hiện hợp đồng là số ngày tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực đến ngày các bên hoàn thành nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng, trừ thời gian thực hiện nghĩa vụ bảo hành (nếu có).

15/04/2025 09:02

Đơn vị của ông Phạm Việt Tùng (Hà Nội) dự thầu gói thầu trong lĩnh vực bảo hiểm xây dựng công trình. Tại hồ sơ mời thầu có quy định:

- Thời gian thực hiện hợp đồng được quy định tại bảng dữ liệu đấu thầu của hồ sơ mời thầu là "1.200 ngày và cộng 2 năm bảo hành và phát hiện sự cố";

- Thời hạn bảo hiểm được quy định trong yêu cầu kỹ thuật của hồ sơ mời thầu là "theo thời gian thi công công trình nhưng không quá 32 tháng kể từ ngày hiệu lực hợp đồng và cộng 24 tháng bảo hiểm bảo hành và phát hiện sự cố".

Tuy nhiên, sau đó hồ sơ mời thầu đã được sửa đổi thời hạn bảo hiểm như sau: "... theo thời gian thi công công trình nhưng không quá 40 tháng kể từ ngày hiệu lực hợp đồng và cộng 24 tháng bảo hiểm bảo hành và phát hiện sự cố". Ngoài ra không có bất cứ thông báo nào về việc điều chỉnh thời gian thực hiện hợp đồng tại bảng dữ liệu đấu thầu.

Khi nộp thầu, đơn vị ông Tùng đã đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng trong đơn dự thầu là "1.200 ngày và cộng 2 năm bảo hành và phát hiện sự cố". Trong hồ sơ dự thầu kỹ thuật đã đề xuất thời hạn bảo hiểm tuân thủ yêu cầu của hồ sơ mời thầu là "theo thời gian thi công công trình nhưng không quá 40 tháng kể từ ngày hiệu lực hợp đồng và cộng 24 tháng bảo hiểm bảo hành và phát hiện sự cố".

Bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu của đơn vị ông Tùng không hợp lệ do vi phạm điểm b khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ (thời điểm phát hành hồ sơ mời thầu Nghị định 63/2014/NĐ-CP đang có hiệu lực) quy định một trong các điều kiện đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu là thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật: "b) Có đơn dự thầu được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký tên, đóng dấu (nếu có) theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu; thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật;…".

Đồng thời, bên mời thầu nhận định rằng 1.200 ngày luôn luôn ngắn hơn 40 tháng.

Theo ý kiến của đơn vị ông Tùng, thời gian thực hiện hợp đồng trong đơn dự thầu đang tuân thủ đúng theo thời gian thực hiện hợp đồng được quy định trong bảng dữ liệu đấu thầu. Bên mời thầu không có thông báo về việc thay đổi thời gian thực hiện hợp đồng tại bảng dữ liệu đấu thầu nên không đủ căn cứ để đánh giá hồ sơ dự thầu của đơn vị không hợp lệ; 1.200 ngày và 40 tháng có sự chênh lệch không đáng kể nên chủ đầu tư hoàn toàn có thể áp dụng xử lý tình huống trong trường hợp này.

Ông Tùng hỏi, bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu của đơn vị không hợp lệ có đúng không?

Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) có ý kiến như sau:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 35 Luật Đấu thầu, một trong các nội dung trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu là thời gian thực hiện hợp đồng. Thời gian thực hiện hợp đồng là số ngày tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực đến ngày các bên hoàn thành nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng, trừ thời gian thực hiện nghĩa vụ bảo hành (nếu có).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ, việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.

Theo đó, đối với gói thầu lựa chọn nhà thầu trước thời điểm Luật Đấu thầu năm 2024 có hiệu lực thi hành, việc đánh giá hồ sơ dự thầu (trong đó có thời gian thực hiện hợp đồng) tuân thủ quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu.

Thời gian thực hiện hợp đồng quy định tại hồ sơ mời thầu phải bảo đảm thống nhất để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và phù hợp với kế hoạch lựa chọn nhà thầu.

Chinhphu.vn