Quản lý hiệu quả giúp cân bằng cung cầu, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam có nguồn nước mặt dồi dào, khoảng 935,9 tỷ m3/năm từ các sông lớn như sông Hồng, sông Cửu Long, và sông Mekong, cùng 63 tỷ m3 nước ngầm. Tuy nhiên, sự phân bố không đồng đều, trong khi nước tại ĐBSCL và miền núi phía Bắc rất thoải mái thì khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ thường xuyên khan hiếm nước. Điều này đòi hỏi quản lý hiệu quả thì mới có thể điều tiết sản xuất và ổn định đời sống cho người dân.
Quản lý nguồn nước là nền tảng của an ninh lương thực. Với dân số dự kiến 110 triệu người vào năm 2030, nguồn nước ổn định là yếu tố sống còn để duy trì sản lượng lúa gạo – chiếm 90% xuất khẩu nông sản.
Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 9,18 triệu tấn gạo (5,75 tỷ USD), nhưng xâm nhập mặn và hạn hán tại ĐBSCL đang đe dọa sản xuất. Bên cạnh đó, chất lượng nước ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe. Tỷ lệ tiếp cận nước sạch đạt 94% ở đô thị nhưng chỉ 70% ở nông thôn, với mức tiêu thụ 60-80 lít/người/ngày. Ô nhiễm từ nước thải và hóa chất tại các sông lớn như sông Tô Lịch, sông Sài Gòn làm gia tăng nguy cơ bệnh tật, gây áp lực lên hệ thống y tế.
Biến đổi khí hậu làm hạn hán, lũ lụt và xâm nhập mặn thêm trầm trọng, với độ mặn 4‰ tại ĐBSCL xâm nhập sâu 50-60 km năm 2024. Ngân hàng Thế giới cảnh báo Việt Nam có thể mất 10% GDP nếu không ứng phó với vấn đề này. Tốc độ đô thị hóa, dự kiến vượt 50% vào năm 2030, đẩy nhu cầu nước lên 122,5 tỷ m3/năm, trong khi thất thoát nước vẫn ở mức 15,5%, cho thấy hạ tầng chưa theo kịp.
Quản lý hiệu quả giúp cân bằng cung cầu, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống. Tối ưu hóa nước trong nông nghiệp qua tưới nhỏ giọt hay tái sử dụng nước thải sẽ tăng giá trị sản xuất. Xây hồ chứa, khôi phục rừng đầu nguồn và hợp tác với Ủy hội Mekong Quốc tế đảm bảo nguồn nước trước biến đổi khí hậu. Đầu tư hạ tầng nước sạch và xử lý nước thải cũng giảm bất bình đẳng vùng miền, cải thiện sức khỏe và kinh tế.
Sự ra đời của Bộ Nông nghiệp và Môi trường từ việc sáp nhập Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường không chỉ là một thay đổi cơ học mà còn mở ra cơ hội lớn để quản lý ngành nước hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp nhất này, đặt nền tảng cho một chiến lược dài hạn, bền vững trong quản lý tài nguyên nước – yếu tố sống còn của nền kinh tế và đời sống Việt Nam.
Việc thống nhất quản lý ngành nước, giúp xây dựng chiến lược cân bằng nguồn nước hiệu quả hơn, vừa khai thác hợp lý, vừa dẫn nước ngọt từ nơi khác về để giảm phụ thuộc vào nước ngầm.
Sự thống nhất không chỉ giải quyết chồng chéo mà còn mang lại tầm nhìn dài hạn cho ngành nước. Thứ trưởng Hiệp nhấn mạnh, với Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 đã được Thủ tướng phê duyệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ triển khai các dự án này nhanh chóng, tránh lãng phí thời gian và nguồn lực.
Định hướng quản lý ngành nước giai đoạn 2025-2030 tập trung vào ba trụ cột chính: tối ưu hóa tài nguyên, tích hợp dữ liệu và nâng cao giá trị sử dụng nước. Hiện nay, 80% nguồn nước của Việt Nam phục vụ nông nghiệp – lĩnh vực mang lại lợi nhuận thấp – trong khi chỉ 20% dành cho công nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt. "Hiệu quả sử dụng nước của chúng ta thấp hơn trung bình thế giới. Để thay đổi, ngành nông nghiệp phải tính toán lại, gia tăng giá trị sử dụng nước bằng cách mở rộng phục vụ các ngành kinh tế khác", ông Hiệp chia sẻ.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết, một trong những vấn đề lớn ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ thực hiện tới đây là tích hợp dữ liệu điều tra cơ bản.
Trước đây, ngành thủy lợi điều tra lượng nước vào - ra công trình, mưa và dòng chảy để phục vụ sản xuất; ngành tài nguyên môi trường điều tra tổng lượng nước, chất lượng nước, xâm nhập mặn và hạn hán; còn phòng chống thiên tai điều tra lòng dẫn và mực nước để quản lý đê điều. Dữ liệu rải rác này gây lãng phí nguồn lực và khó xây dựng chiến lược toàn diện. "Bây giờ, chúng ta sẽ tích hợp thành một bộ dữ liệu lớn, phân tích để đưa ra kế hoạch tốt hơn", Thứ trưởng Hiệp nhấn mạnh.
Ví dụ, Bộ Chính trị đã cho phép giảm 500.000 ha đất lúa, giữ lại 3 triệu ha để đảm bảo an ninh lương thực. Việc xác định khu vực nào chuyển đổi sang công nghiệp, dịch vụ hay khu dân cư trước đây phụ thuộc vào dữ liệu đất đai từ Bộ TN&MT và mã số vùng trồng từ Bộ NN&PTNT. Nay, với dữ liệu tích hợp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có thể chủ động đề xuất chuyển đổi tại các khu vực thiếu nước hoặc gần đô thị, tối ưu hóa giá trị sử dụng đất và nước, giảm áp lực lên tài nguyên nước.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh, định hướng quản lý ngành nước trong thời gian tới không chỉ dừng ở việc giải quyết chồng chéo mà còn hướng tới phát triển bền vững. Từ việc tối ưu hóa tài nguyên, tích hợp dữ liệu đến nâng cao giá trị sử dụng nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang đặt nền móng cho một hệ thống quản lý hiện đại, thống nhất. Với chiến lược này, Việt Nam không chỉ bảo vệ tài nguyên nước trước áp lực đô thị hóa và biến đổi khí hậu mà còn biến nước thành động lực phát triển kinh tế xanh, bền vững trong tương lai.
Đỗ Hương