In bài viết

Thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

(Chinhphu.vn) - Thông cáo báo chí của thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

14/02/2019 09:12

Sửa đổi, bổ sung quy định về khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt

Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.

Trong đó, Nghị định số 14/2019/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định về việc khấu trừ thuế.

Nghị định mới quy định người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng các nguyên liệu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với nguyên liệu nhập khẩu (bao gồm cả số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp theo Quyết định ấn định thuế của cơ quan hải quan, trừ trường hợp cơ quan hải quan xử phạt về gian lận, trốn thuế) hoặc đã trả đối với nguyên liệu mua trực tiếp từ cơ sở sản xuất trong nước khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp. Số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của nguyên liệu đã sử dụng để sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra.

Riêng đối với xăng sinh học, số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ của kỳ khai thuế được căn cứ vào số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp hoặc đã trả trên một đơn vị nguyên liệu mua vào của kỳ khai thuế trước liền kề của xăng khoáng để sản xuất xăng sinh học.

Đối với các doanh nghiệp được phép sản xuất, pha chế xăng sinh học, việc kê khai nộp thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt được thực hiện tại cơ quan thuế địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học (bao gồm cả số thuế chưa được khấu trừ hết phát sinh kể từ kỳ khai thuế tháng 1/2016) được bù trừ với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp của hàng hóa, dịch vụ khác phát sinh trong kỳ. Trường hợp sau khi bù trừ, còn số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo hoặc hoàn trả.

Nghị định số 14/2019/NĐ-CP cũng nêu rõ, người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu bao gồm cả số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp theo Quyết định ấn định thuế của cơ quan hải quan, trừ trường hợp cơ quan hải quan xử phạt về gian lận, trốn thuế khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp bán ra trong nước. Số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hóa nhập khẩu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra và chỉ được khấu trừ tối đa bằng tương ứng số thuế tiêu thụ đặc biệt tính được ở khâu bán ra trong nước. Phần chênh lệch không được khấu trừ giữa số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu với số thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra trong nước, người nộp thuế được hạch toán vào chi phí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

Điều kiện khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định như sau:

a- Đối với trường hợp nhập khẩu nguyên liệu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để sản xuất hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và trường hợp nhập khẩu hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì chứng từ để làm căn cứ khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt là chứng từ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khâu nhập khẩu.

b- Đối với trường hợp mua nguyên liệu trực tiếp của nhà sản xuất trong nước:

- Hợp đồng mua bán hàng hoá, trong hợp đồng phải có nội dung thể hiện hàng hóa do cơ sở bán hàng trực tiếp sản xuất; bản sao Giấy chứng nhận kinh doanh của cơ sở bán hàng (có chữ ký, đóng dấu của cơ sở bán hàng).

- Chứng từ thanh toán qua ngân hàng.

- Chứng từ để làm căn cứ khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt là hoá đơn giá trị gia tăng khi mua hàng. Số thuế tiêu thụ đặc biệt mà đơn vị mua hàng đã trả khi mua nguyên liệu được xác định = giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt nhân (x) thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt; trong đó:

Giá tính

thuế

TTĐB

 

 =

Giá mua chưa có thuế GTGT

(thể hiện trên hóa đơn GTGT)

-

Thuế bảo vệ môi trường

(nếu có)

_____________________________________________________
1 Thuế suất thuế TTĐB

Việc khấu trừ tiền thuế tiêu thụ đặc biệt được thực hiện khi kê khai thuế tiêu thụ đặc biệt và số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp được xác định theo công thức sau:

Số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp

=

Số thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được bán ra trong kỳ

-

Số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với hàng hóa, nguyên liệu ở khâu nhập khẩu hoặc số thuế tiêu thụ đặc biệt đã trả ở khâu nguyên liệu mua vào tương ứng với số hàng hoá được bán ra trong kỳ

Trường hợp chưa xác định được chính xác số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp (hoặc đã trả) cho số nguyên vật liệu tương ứng với số sản phẩm tiêu thụ trong kỳ thì có thể căn cứ vào số liệu của kỳ trước để tính số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ và sẽ xác định theo số thực tế vào cuối quý, cuối năm. Trong mọi trường hợp, số thuế tiêu thụ đặc biệt được phép khấu trừ tối đa không vượt quá số thuế tiêu thụ đặc biệt tính cho phần nguyên liệu theo tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật của sản phẩm.

Sửa đổi, bãi bỏ một số điều kiện kinh doanh thuộc quản lý của Ngân hàng Nhà nước

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 16/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Nghị định số 16/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 của Chính phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.

Trong đó, về điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, Nghị định đã giảm điều kiện về thời gian hoạt động có lãi "trong 5 năm" xuống còn "trong 3 năm" liên tục trước thời điểm nộp hồ sơ. Cụ thể, Nghị định nêu rõ, để được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện sau: Có lãi trong 3 năm liên tục liền trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước ngoài được thể hiện trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán và không có ý kiến ngoại trừ trọng yếu theo quy định của Bộ Tài chính. Báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc lập được Bộ Tài chính chấp thuận và công bố theo quy định về kiểm toán độc lập đối với đơn vị có lợi ích công chúng...

Về điều kiện đối với hoạt động ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài và điều kiện đối với hoạt động nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, Nghị định cũng sửa điều kiện có lãi trong "5 năm" thành "3 năm" và bỏ các điều kiện mang tính chung chung, không cụ thể về cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân sự và tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước.

Sửa điều kiện cấp GCN đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng

Nghị định số 16/2019/NĐ-CP cũng sửa đổi điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng đối với công ty thông tin tín dụng quy định tại Khoản 5 Điều 7 Nghị định số 10/2010/NĐ-CP ngày 12/02/2010. Theo đó, công ty tín dụng phải có tối thiểu 15 tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trừ ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô) cam kết cung cấp thông tin tín dụng và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài này không có cam kết tương tự với công ty thông tin tín dụng khác.

Về điều kiện chung để công ty tài chính thực hiện hoạt động ngân hàng (Điều 5 Nghị định 39/2014/NĐ-CP), Nghị định bãi bỏ điều kiện “hoạt động ngân hàng của công ty tài chính phải được ghi trong Giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp” và “đối với các hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt động ngoại hối, công ty tài chính tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối”.

Về điều kiện công ty tài chính được phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức, Nghị định cũng bỏ các điều kiện không cần thiết như “thời gian hoạt động tối thiểu, kết quả hoạt động, kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước quy định” và “Phương án phát hành giấy tờ có giá dài hạn phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị, hội đồng thành viên thông qua theo quy định của pháp luật”.

Sửa điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán

Bên cạnh đó, Nghị định 16/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 07/5/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.

Cụ thể, điều kiện để các tổ chức không phải là ngân hàng muốn cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán quy định tại điểm b khoản 2 Điều 15 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 8 Điều 1 Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày1/7/2016) được sửa đổi, bổ sung như sau: Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt, trong đó tối thiểu phải có các nội dung: (i) Quy trình nghiệp vụ kỹ thuật của dịch vụ đề nghị cấp phép, gồm: Tên, phạm vi cung ứng, đối tượng khách hàng, điều kiện sử dụng, sơ đồ và diễn giải các bước thực hiện nghiệp vụ, quy trình dòng tiền từ lúc khởi tạo giao dịch đến lúc quyết toán nghĩa vụ giữa các bên liên quan; (ii) Cơ chế đảm bảo khả năng thanh toán, gồm: Cơ chế mở và duy trì số dư tài khoản đảm bảo thanh toán, mục đích sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán; (iii) Quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ; quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn, bảo mật; các nguyên tắc chung và quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền; quy trình và thủ tục giải quyết yêu cầu tra soát, khiếu nại, tranh chấp.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20/3/2019. 

Nhiều chính sách ưu đãi doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Chính phủ ban hành Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, trong đó có nhiều chính sách ưu đãi doanh nghiệp khoa học và công nghệ như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; ưu đãi tín dụng;...

Cụ thể, về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập của doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cụ thể: được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo.

Doanh thu, thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ. Doanh thu, thu nhập được tạo ra từ dịch vụ có ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin phải là doanh thu, thu nhập từ dịch vụ mới.

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ không được ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với năm tài chính không đáp ứng được điều kiện về doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu của doanh nghiệp. Điều kiện, thủ tục thực hiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và quản lý thuế.

Nghị định cũng quy định: Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai. Sở Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ khi xác định diện tích đất được miễn, giảm cho mục đích khoa học và công nghệ. Thủ tục, hồ sơ đề nghị miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định của pháp luật về tiền thuê đất và quản lý thuế.

Ưu đãi tín dụng

Về ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất kinh doanh, Nghị định nêu rõ: Các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ của doanh nghiệp khoa học và công nghệ được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành.

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay và bảo lãnh để vay vốn.

Đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ có tài sản dùng để thế chấp theo quy định của pháp luật được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay tối đa 50% lãi suất vay vốn tại ngân hàng thương mại thực hiện cho vay.

Đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ có dự án khoa học và công nghệ khả thi được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc bảo lãnh để vay vốn tại các ngân hàng thương mại.

Các Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quy định quy chế cho vay, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn, bảo đảm thuận lợi cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiếp cận; doanh nghiệp khoa học và công nghệ đáp ứng tiêu chí hỗ trợ của Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quỹ xem xét, cấp bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các tổ chức cho vay theo quy định của pháp luật.

Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ

Nghị định cũng quy định cụ thể về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ. Theo đó, doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được ưu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước để thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm sản phẩm mới, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Trong trường hợp phát sinh chi phí mua nguyên vật liệu để thực hiện các hoạt động nghiên cứu, doanh nghiệp chi trả các khoản chi phí phát sinh cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước.

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp và các nguồn huy động hợp pháp khác để thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ; doanh nghiệp khoa học và công nghệ được ưu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ, tài sản trí tuệ của Nhà nước. Nội dung và mức hỗ trợ cụ thể thực hiện theo quy định của Nhà nước về dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ, tài sản trí tuệ; doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật về lệ phí trước bạ.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, ưu tiên xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường hợp sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm nhóm 2 khi chưa có quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/3/2019.

Bãi bỏ một số văn bản QPPL luật do Chính phủ ban hành

Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2019/NĐ-CP bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành.

Cụ thể, bãi bỏ toàn bộ 9 văn bản quy phạm pháp luật sau:

1- Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài.

2- Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ngày 16/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

3- Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án.

4- Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự.

5- Nghị định số 10/2006/NĐ-CP ngày 17/01/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra công tác dân tộc.

6- Nghị định số 30/2006/NĐ-CP ngày 29/3/2006 của Chính phủ về thống kê khoa học và công nghệ.

7- Nghị định số 134/2007/NĐ-CP ngày 15/8/2007 của Chính phủ quy định về đơn vị đo lường chính thức.

8- Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2011 của Chính phủ quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan.

9- Nghị quyết số 33/2008/NQ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ về thực hiện thí điểm một số thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng đối với dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.

Ngoài ra, Nghị định cũng bãi bỏ Điều 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 21, 22, khoản 1 Điều 23, khoản 1 Điều 24 Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ về việc phân loại đô thị.

Nghị định 12/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 20/3/2019.

Thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát với mục tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế chưa được quan sát nhằm phản ánh đầy đủ, toàn diện hơn phạm vi, quy mô của nền kinh tế.

Đề án cũng nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ thống kê nói chung và nghiệp vụ biên soạn tài khoản quốc gia nói riêng, từng bước tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ thống kê quốc tế; góp phần bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế.

Nội dung của Đề án gồm nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế đo lường khu vực kinh tế chưa được quan sát; khảo sát, đánh giá toàn diện thực trạng khu vực kinh tế chưa được quan sát trong nền kinh tế; xây dựng Danh mục các hoạt động kinh tế phản ánh phạm vi, quy mô của khu vực kinh tế này; phương pháp đo lường.

Bên cạnh đó, trên cơ sở kết quả thử nghiệm, hằng năm tiến hành đo lường chính thức, cập nhật kết quả biên soạn tổng sản phẩm trong nước, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các chỉ tiêu tài khoản quốc gia khác theo phương pháp sản xuất. Các số liệu ước tính, sơ bộ, chính thức; các kỳ biên soạn, công bố, phổ biến quý I, quý II, 6 tháng, quý III, 9 tháng và cả năm của các chỉ tiêu này thực hiện theo Luật Thống kê ngày 23/11/2015 và các văn bản liên quan khác.

Giải pháp chủ yếu của Đề án là khảo sát, đánh giá cụ thể, chi tiết và toàn diện thực trạng các hoạt động kinh tế chưa được quan sát theo 5 nhóm hoạt động của ba khu vực kinh tế (Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ); loại hình sở hữu (Kinh tế Nhà nước, kinh tế ngoài Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài); ngành, lĩnh vực; địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tiêu thức khác. Trên cơ sở đó, xây dựng Danh mục các hoạt động kinh tế chưa được quan sát.

Xây dựng, ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê nguồn thông tin đầu vào đo lường khu vực kinh tế chưa được quan sát, bảo đảm tính toàn diện và khả thi, phù hợp với khả năng thu thập thông tin của ngành Thống kê và các cơ quan, tổ chức liên quan, trong đó quy định rõ ràng, đầy đủ tiêu thức phân tổ, kỳ thu thập thông tin, cơ quan chịu trách nhiệm thu thập. Định kỳ rà soát, cập nhật bổ sung Hệ thống chỉ tiêu thống kê nguồn thông tin đầu vào để đáp ứng yêu cầu với thực tế.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ thống kê, góp phần nâng cao hiệu quả đo lường khu vực kinh tế chưa được quan sát. Sử dụng đồng thời ba hình thức: Điều tra thống kê, báo cáo thống kê và khai thác dữ liệu hành chính trong thu thập thông tin. Kịp thời cài đặt nội dung khu vực kinh tế chưa được quan sát vào các hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện có (Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; hệ thống chỉ tiêu thống kê của các bộ, ngành; hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện, xã); bổ sung một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế chưa được quan sát.

Tăng cường phối hợp, cung cấp, chia sẻ thông tin thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát giữa các bộ, ngành, địa phương; hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế về đăng ký sản xuất kinh doanh, nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách nhà nước và nghĩa vụ xã hội của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế; quy định về sử dụng lao động, đào tạo nghề, cung cấp tín dụng, mức đóng và hưởng bảo hiểm xã hội; quy định về xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và các quy định khác, góp phần đánh giá chính xác và thu hẹp phạm vi, quy mô khu vực kinh tế chưa được quan sát.

Tăng cường hợp tác quốc tế về thống kê, cập nhật lý luận, phương pháp nghiệp vụ tiên tiến và kinh nghiệm đo lường khu vực kinh tế chưa được quan sát của các nước, hướng tới thực hiện mục tiêu nâng mức độ biên soạn Hệ thống tài khoản quốc gia của Thống kê nước ta theo Khung đánh giá của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc từ mức 2/6 năm 2008, lên đạt mức 4/6 vào năm 2020 và mức 6/6 vào năm 2030 đề ra trong Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia

Giai đoạn từ nay đến năm 2030, làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh viễn thám, hệ thống trạm thu nhận, xử lý dữ liệu viễn thám, trạm điều khiển vệ tinh viễn thám, hệ thống chụp ảnh bề mặt Trái Đất từ các thiết bị bay không người lái, khinh khí cầu; xây dựng hệ thống trạm thu, hệ thống xử lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.

Ứng dụng rộng rãi công nghệ viễn thám, sử dụng sản phẩm, dữ liệu viễn thám trong các ngành, lĩnh vực, trọng tâm là điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát tài nguyên, môi trường, tìm kiếm cứu nạn cứu hộ, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế về viễn thám.

Đó là mục tiêu Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược là hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về viễn thám. Đến năm 2020, hoàn thiện danh mục dịch vụ sự nghiệp công thuộc lĩnh vực viễn thám và cơ chế thu nhận, chia sẻ thông tin, dữ liệu viễn thám; tăng cường năng lực quản lý nhà nước về viễn thám, trong đó tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý nhà nước về viễn thám.

Bên cạnh đó, xây dựng và phát triển hệ thống thu nhận dữ liệu ảnh viễn thám. Cụ thể, đầu tư chế tạo vệ tinh viễn thám quang học độ phân giải siêu cao, radar độ phân giải siêu cao, siêu phổ và chùm vệ tinh viễn thám nhỏ; tăng cường đầu tư phần cứng, phần mềm viễn thám phục vụ cập nhật, chia sẻ, khai thác dữ liệu viễn thám; xây dựng và hoàn thiện mạng lưới trạm thu dữ liệu viễn thám (trạm cố định, trạm di động, trạm ảo và trạm thu dữ liệu viễn thám khí tượng), trạm điều khiển; hệ thống lưu trữ, xử lý dữ liệu viễn thám và mạng lưới truyền dẫn dữ liệu viễn thám để cung cấp dữ liệu viễn thám cho các bộ, ngành, địa phương; phát triển thiết bị bay không người lái, khinh khí cầu để cung cấp dữ liệu viễn thám phục vụ nhu cầu giám sát tài nguyên môi trường và dự báo khí tượng thủy văn; đẩy mạnh xã hội hóa việc ứng dụng công nghệ viễn thám.

Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia, trong đó, xây dựng, cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia, trong đó dữ liệu ảnh viễn thám có độ phân giải cao được cập nhật hàng năm, dữ liệu ảnh viễn thám có độ phân giải siêu cao được cập nhật 05 năm một lần phủ trùm lãnh thổ Việt Nam và hàng năm cho khu vực đô thị; tích hợp dữ liệu viễn thám được thu nhận tại các trạm thu và các nguồn khác vào cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia; mua dữ liệu viễn thám của nước ngoài trong trường hợp cần thiết phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, đẩy mạnh sử dụng thông tin, dữ liệu, sản phẩm viễn thám: Cung cấp thông tin, dữ liệu viễn thám, định kỳ công bố siêu dữ liệu viễn thám quốc gia; tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu, sản phẩm viễn thám giữa các cơ quan quản lý dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng; thúc đẩy sử dụng thông tin, dữ liệu, sản phẩm viễn thám trong các ngành, lĩnh vực.

Triển khai thi hành Luật Đặc xá năm 2018

Luật Đặc xá số 30/2018/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 6 ngày 19/11/2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. Để bảo đảm triển khai thi hành Luật Đặc xá năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật này.

Theo Kế hoạch, Bộ Công an sẽ chủ trì biên soạn, in, cấp phát tài liệu, tuyên truyền, phổ biến Luật và văn bản quy định chi tiết thi hành cho cán bộ, chiến sĩ trong Công an nhân dân, cán bộ, công chức và nhân dân; xây dựng và triển khai kế hoạch tập huấn chuyên sâu về Luật cho lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, báo cáo viên pháp luật Công an các cấp, các học viện, trường trong Công an nhân dân.

Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Công an tổ chức tập huấn chuyên sâu về Luật và văn bản quy định chi tiết thi hành cho lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ cơ quan, đơn vị làm công tác tham mưu, trực tiếp thực hiện công tác đặc xá.

Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Công an tổ chức tập huấn về Luật và các văn bản quy định chi tiết thi hành cho cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan, đơn vị thực hiện nhiệm vụ liên quan đến công tác đặc xá thuộc phạm vi quản lý.

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình ở trung ương và địa phương tuyên truyền, phổ biến Luật và văn bản hướng dẫn thi hành.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật và văn bản quy định chi tiết thi hành bằng hình thức phù hợp với từng đối tượng, điều kiện, tình hình thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

Thời gian thực hiện từ năm 2019 và các năm tiếp theo.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu trong tháng 4/2019, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác đặc xá để kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới, bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đặc xá, gửi kết quả rà soát về Bộ Công an trong tháng 4 năm 2019 để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đặc xá năm 2018 trình Chính phủ trong tháng 4/2019.

Sửa đổi quy định lập Dự án đầu tư sản xuất cho người dân sau tái định cư

Chính phủ vừa ban hành Quyết định 06/2019/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 64/2014/QĐ-TTg ngày 18/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đặc thù về di dân, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện.

Trong đó, sửa đổi quy định lập và thực hiện Dự án đầu tư ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư. Cụ thể, việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện Dự án đầu tư ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về đầu tư công và các quy định pháp luật hiện hành khác có liên quan.

Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương trong công tác này. Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp kế hoạch trung hạn hàng năm do UBND các tỉnh lập gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính theo quy định của Luật đầu tư công, Luật ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, chủ trì tổ chức, phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát trong quá trình triển khai thực hiện các Dự án theo Quyết định này; tổ chức tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Quyết định này theo định kỳ hàng năm, báo cáo Thủ tướng Chính phủ; phát hiện những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Bộ Công Thương kiểm tra việc xây dựng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gắn với sản xuất và chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp ở vùng dự án thủy lợi, thủy điện theo các quy định pháp luật hiện hành.

Kế hoạch giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2019

Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh Trung ương vừa ban hành Kế hoạch giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2019.

Kế hoạch nhằm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN), góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạnh mới.

Theo Kế hoạch, cơ quan Thường trực Hội đồng GDQP&AN Trung ương tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Bộ thực hiện quản lý nhà nước về công tác GDQP&AN theo thẩm quyền; tăng cường công tác quản lý Nhà nước và hiệu quả hoạt động của Hội đồng GDQP&AN các cấp, nhất là vai trò tham mưu của cơ quan thường trực Hội đồng GDQP&AN các cấp đối với công tác GDQP&AN; thường xuyên củng cố, kiện toàn Hội đồng GDQP&AN các cấp, đảm bảo đủ số lượng, đúng thành phần theo quy định; duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nhất là chất lượng các phiên họp hội đồng và thực hiện tốt việc kiểm tra công tác GDQP&AN theo kế hoạch ở tất cả các cấp.

100% các đối tượng cán bộ, đảng viên được BDKTQP&AN

Các bộ, ngành Trung ương và hội đồng GDQP&AN các cấp rà soát, nắm số lượng, phân loại các đối tượng, xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh (BDKTQP&AN) cho các đối tượng theo quy định, phấn đấu hết nhiệm kỳ cấp ủy, nhiệm kỳ hội đồng nhân dân có 100% các đối tượng cán bộ, đảng viên được BDKTQP&AN...

Các bộ, ngành trung ương và địa phương tiếp tục triển khai thực hiện Đề án Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về GDQP&AN; tiếp tục triển khai xây dựng các trung tâm GDQP&AN.

Quản lý chặt việc cấp phôi, chứng chỉ môn học GDQP&AN

Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan sửa đổi, bổ sung chương trình, giáo trình BDKTQP&AN dùng cho các đối tượng; điều chỉnh, bổ sung danh sách đơn vị liên kết GDQP&AN của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học theo quy định.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường có trung tâm GDQP&AN, các trường được tự chủ môn học GDQP&AN thuộc quyền khắc phục những tồn tại, hạn chế; mua sắm bổ sung vật chất, trang thiết bị dạy học...; chỉ đạo thu hồi quyết định cho phép tự chủ môn học đối với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không đủ điều kiện tự chủ môn học GDQP&AN; quản lý chặt chẽ việc cấp phôi, chứng chỉ môn học GDQP&AN theo đúng danh sách liên kết và quy định của pháp luật; không cấp phôi chứng chỉ môn học cho các trung tâm, các trường liên kết không đúng quy định...

Kiện toàn BCĐ Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản

Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định kiện toàn Ban Chỉ đạo Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Ban Chỉ đạo).

Theo quyết định, Trưởng Ban Chỉ đạo là Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng. Phó Trưởng ban Thường trực là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

Các Ủy viên Ban Chỉ đạo gồm: Ông Cao Đức Phát, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương; ông Lê Hoài Trung, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao; ông Phan Tâm, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; bà Vũ Thị Mai, Thứ trưởng Bộ Tài chính; ông Trần Quốc Khánh,Thứ trưởng Bộ Công Thương; ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Nguyễn Văn Công, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; ông Bùi Thế Duy, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; ông Lê Hải An, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; ông Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; ông Nguyễn Sỹ Hiệp, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

Ngoài ra, còn có các Ủy viên mời: Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam (hoặc đại diện Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam); Đại diện Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam.

Ban Chỉ đạo có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ trong nghiên cứu, chỉ đạo và phối hợp giải quyết những nhiệm vụ liên quan đến thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ đề ra các định hướng, giải pháp lớn để thực hiện Chiến lược, đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và những vấn đề quan trọng, liên ngành cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong từng giai đoạn; báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Chiến lược và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các biện pháp xử lý thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ nhằm đảm bảo thực hiện thành công Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030; giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hòa, phối hợp các Bộ, ngành xây dựng và hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên trong Chiến lược; tháo gỡ các vấn đề quan trọng, liên ngành để thúc đẩy thực hiện có hiệu quả Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Đồng thời, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện có hiệu quả các Kế hoạch hành động phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên trong Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Đề xuất cơ chế hỗ trợ sản phẩm công nghệ cao thâm nhập thị trường

Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đề xuất cơ chế hỗ trợ các sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao trong việc thâm nhập thị trường trong nước và quảng bá thương hiệu ra nước ngoài.

Đây là một trong những nội dung tại Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại cuộc họp Ban Chỉ đạo các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia (Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, sau đây viết tắt là 3 Chương trình).

Thông báo kết luận nêu rõ: Trong điều kiện nguồn lực từ Ngân sách nhà nước còn hạn chế, một số cơ chế, chính sách lớn vẫn chưa được tháo gỡ đầy đủ, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các Bộ, ngành liên quan đã cố gắng, chủ động triển khai các Chương trình quốc gia theo hướng tăng cường liên kết, bổ trợ lẫn nhau nhằm nâng cao chuỗi giá trị của các sản phẩm chủ lực trong nước và đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ ưu tiên. Thông qua việc triển khai các nhiệm vụ thuộc các Chương trình quốc gia, một số sản phẩm có giá trị gia tăng và có khả năng cạnh tranh cao đã lần đầu tiên được làm chủ và sản xuất tại Việt Nam.

Mặc dù vậy, các Chương trình quốc gia vẫn chưa thật sự thu hút được quan tâm của xã hội và của cộng đồng doanh nghiệp, chủ yếu do chưa đẩy mạnh hoạt động truyền thông về nội dung, kết quả và chưa có các cơ chế thông thoáng, hiệu quả khuyến khích doanh nghiệp đăng ký tham gia vào các Chương trình.

Để tiếp tục triển khai có hiệu quả 3 Chương trình, Bộ Khoa học và Công nghệ phải chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục triển khai có trọng tâm, tăng cường liên kết các Chương trình và nhiệm vụ thuộc các Chương trình theo chuỗi giá trị để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường.

Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng tiêu chí và quy định về việc công nhận sản phẩm quốc gia; đề xuất cơ chế hỗ trợ các sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao trong việc thâm nhập thị trường trong nước và quảng bá thương hiệu ra nước ngoài để khuyến khích doanh nghiệp tham gia các Chương trình; đẩy mạnh truyền thông về nội dung, kết quả, sản phẩm của các Chương trình quốc gia, tạo sự lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Ban Chỉ đạo cũng đồng ý việc tiếp tục triển khai 3 Chương trình trong giai đoạn tiếp theo sau năm 2020. Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành liên quan đánh giá các kết quả đã đạt được, trên cơ sở đó xây dựng nội dung các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia giai đoạn 2021-2025 với tinh thần có trọng tâm, trọng điểm, xác định các mục tiêu khả thi và phù hợp với nguồn lực được giao, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trong năm 2019, đảm bảo triển khai không gián đoạn và có hiệu quả các Chương trình./.