Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể phát triển bền vững kinh tế biển
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Kế hoạch tổng thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra 6 nội dung, giải pháp về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ; về phát triển kinh tế biển, ven biển; về nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển; về môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Trong đó, về phát triển kinh tế biển, ven biển, giải pháp Nghị quyết đưa ra là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch cho các địa bàn trọng điểm, khu vực động lực phát triển du lịch ven biển, hải đảo; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển, hình thành các khu dịch vụ du lịch phức hợp, dự án dịch vụ quy mô lớn, các trung tâm mua sắm, giải trí chất lượng cao, các loại hình du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng.
Thí điểm phát triển các tuyến du lịch ra các đảo, vùng biển xa bờ kết hợp với dịch vụ biển khác. Xúc tiến quảng bá du lịch, đa dạng hóa các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, phát triển hệ thống cảng biển theo quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để nhanh chóng đưa nước ta hội nhập và đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tiếp tục tìm kiếm, thăm dò khoáng sản, dầu khí, các dạng hydrocarbon phi truyền thống tại các bể trầm tích vùng nước sâu xa bờ nhằm gia tăng trữ lượng khoáng sản, dầu khí. Nâng cao hiệu quả khai thác, tăng hệ số thu hồi các tài nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hòa giữa khai thác, chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
Tập trung phát triển nuôi trồng hải sản trên biển, ven biển theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao. Ưu tiên chuyển đổi một số nghề khai thác thủy sản có tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản, các nghề cấm nhằm giảm cường lực khai thác thủy sản trên các vùng biển; đẩy mạnh phát triển các nghề khai thác hải sản xa bờ, viễn dương theo hướng công nghiệp, gắn khai thác bền vững với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Xây dựng và vận hành các mô hình tổ chức sản xuất trong nuôi trồng và khai thác hải sản hợp lý; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của môi trường và nguồn lợi thủy sản; nâng cao mức sống cho cộng đồng ngư dân, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh trên các vùng biển, hải đảo của Tổ quốc.
Về nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển, Nghị quyết nêu rõ, bổ sung và xây dựng đầy đủ hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục tại các hải đảo. Đảm bảo cho người dân sinh sống và làm việc ở vùng biển, hải đảo được tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng, nhằm nâng cao sức khỏe của người dân.
Xây dựng, hoàn thiện và phát triển các thiết chế văn hóa cho cộng đồng dân cư biển và ven biển, bao gồm cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, nhân sự, quy chế và nguồn kinh phí hoạt động. Duy trì, phục hồi và phát triển các lễ hội, di tích lịch sử, văn hóa; bảo tồn không gian văn hóa, kiến trúc và di sản thiên nhiên, duy trì, phát triển các trung tâm văn hóa đặc trưng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Triển khai thực hiện việc giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, khả năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc học, cấp học.
Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển, Chính phủ yêu cầu đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ biển gắn với điều tra cơ bản biển.
Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, xuất sắc: công nghệ sinh học biển, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển, khai thác đáy biển sâu trên cơ sở kế thừa và phát triển nguồn lực sẵn có.
Đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; có cơ chế thu hút chuyên gia, nhà khoa học, nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế làm việc và cống hiến cho sự nghiệp biển đảo của nước nhà.
Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng vùng biển, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Về môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, sẽ tiếp tục rà soát, xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả các đề án, dự án, nhiệm vụ thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Hoàn thiện việc tích hợp, số hóa cơ sở dữ liệu về biển và hải đảo của các bộ, ngành, địa phương với cơ sở dữ liệu biển quốc gia; đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ bảo đảm việc nhập, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu đối với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu biển, hải đảo của các bộ, ngành, địa phương.
Đầu tư, củng cố cơ sở hạ tầng, trang thiết bị đồng bộ cho hệ thống thu gom và xử lý chất thải nguy hại, nước thải, chất thải rắn sinh hoạt đạt quy chuẩn môi trường và thực hiện việc thu gom, xử lý. Triển khai thực hiện quy hoạch các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu đô thị ven biển đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt đảm bảo theo hướng bền vững, dựa vào hệ sinh thái, thích ứng thông minh với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đáp ứng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đầu tư xây dựng trung tâm cứu hộ động vật biển tại một số khu bảo tồn biển. Đầu tư xây dựng hệ thống đô thị thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Chính phủ yêu cầu Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 chỉ đạo toàn diện việc triển khai thực hiện Nghị quyết này; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá toàn diện việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW để báo cáo Chính phủ.
Sửa quy định giao phương tiện giao thông vi phạm cho người vi phạm bảo quản
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 31/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 3/10/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính.
Trong đó, sửa đổi quy định giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản.
Cụ thể, phương tiện giao thông vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có một trong các điều kiện dưới đây thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ, cụ thể:
- Cá nhân vi phạm có nơi đăng ký thường trú hoặc có đăng ký tạm trú còn thời hạn hoặc có giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác; tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng. Tổ chức, cá nhân vi phạm phải có nơi giữ, bảo quản phương tiện.
- Tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được xem xét để giao giữ, bảo quản phương tiện.
Về trình tự giải quyết việc giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản, Nghị định quy định: Tổ chức, cá nhân vi phạm phải làm đơn gửi cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ đề nghị được giữ, bảo quản phương tiện; trong đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm, hành vi vi phạm hành chính, tên, số lượng, đặc điểm, chủng loại, số hiệu, nhãn hiệu, ký hiệu, xuất xứ, năm sản xuất, số máy, số khung, dung tích (nếu có), tình trạng của phương tiện, nơi giữ, bảo quản phương tiện theo đề nghị của tổ chức, cá nhân sau khi được cơ quan có thẩm quyền giao giữ, bảo quản phương tiện.
Cá nhân vi phạm khi gửi đơn phải gửi kèm theo bản chính hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có công chứng, chứng thực sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước công dân hoặc giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác; đối với tổ chức vi phạm phải có giấy tờ chứng minh về địa chỉ nơi đóng trụ sở hoạt động của tổ chức đó.
Trường hợp sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú được thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân thì cá nhân vi phạm cung cấp số định danh của mình cho cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ khi gửi đơn đề nghị.
Trong thời hạn không quá 2 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị, cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ phải xem xét, quyết định việc giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm, bảo quản. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thêm thời gian để xác minh thì trong thời hạn không quá 3 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị, cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ phải xem xét, quyết định việc giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản. Trường hợp không giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phải có văn bản trả lời, nêu rõ lý do.
Cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ phương tiện có trách nhiệm quản lý, bảo quản phương tiện vi phạm từ khi ra quyết định tạm giữ cho đến khi giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản.
Khi giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản, người có thẩm quyền tạm giữ phải lập biên bản ghi rõ tên, số lượng, khối lượng, đặc điểm, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ, nơi giữ, bảo quản, tình trạng của phương tiện (nếu có) và phải có chữ ký của tổ chức, cá nhân vi phạm và người có thẩm quyền tạm giữ; thời hạn tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện. Biên bản được lập thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản.
Cùng với việc lập biên bản khi giao phương tiện, người có thẩm quyền tạm giữ phải tạm giữ giấy chứng nhận đăng ký phương tiện để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm đã đặt tiền bảo lãnh. Việc tạm giữ giấy chứng nhận phải được lập thành biên bản.
Không được sử dụng phương tiện vi phạm tham gia giao thông trong thời gian được giao bảo quản
Tổ chức, cá nhân vi phạm trong thời gian được giao giữ, bảo quản phương tiện vi phạm thì không được phép sử dụng phương tiện vi phạm đó tham gia giao thông; không được tự ý thay đổi nơi giữ, bảo quản phương tiện vi phạm, nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của người có thẩm quyền tạm giữ.
Trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn hoặc khi có nguy cơ trực tiếp phát sinh tình huống mà nếu không kịp thời di chuyển, thay đổi nơi giữ, bảo quản phương tiện sẽ gây thiệt hại đến phương tiện thì được thay đổi nơi giữ, bảo quản phương tiện nhưng ngay sau đó phải thông báo cho người có thẩm quyền tạm giữ biết.
Trong thời gian được giao giữ, bảo quản phương tiện, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm không chấp hành đúng quy định thì người có thẩm quyền tạm giữ phương tiện xem xét, quyết định chuyển phương tiện vi phạm đó về nơi tạm giữ của cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ.
Trong thời gian được giao giữ, bảo quản phương tiện vi phạm, nếu tổ chức, cá nhân để xảy ra mất, đánh tráo, bán, trao đổi, cầm cố, thế chấp, thay thế, hủy hoại, làm hư hỏng phương tiện thì phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại, hậu quả do hành vi mà mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Nghị định cũng quy định cụ thể các trường hợp không giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản gồm: Phương tiện giao thông của vụ vi phạm pháp luật là vật chứng của vụ án hình sự; phương tiện giao thông được sử dụng để đua xe trái phép, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng hoặc gây tai nạn giao thông; Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện bị làm giả, sửa chữa; biển kiểm soát giả, phương tiện bị thay đổi trái phép số khung, số máy hoặc bị xóa số khung, số máy.
Nghị định có hiệu lực từ 1/5/2020.
Huy động cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 32/2020/NĐ-CP ngày 5/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Nghị định 32/2020/NĐ-CP bổ sung quy định về cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Theo đó, cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật được huy động để tham gia hoạt động thu thập, tổng hợp thông tin; điều tra, khảo sát; tham gia ý kiến về xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật;
Các tổ chức (Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hội xã hội, nghề nghiệp, tổ chức nghiên cứu, đào tạo) được huy động tham gia làm cộng tác viên phải có lĩnh vực hoạt động phù hợp với lĩnh vực cần theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Cá nhân được huy động tham gia làm cộng tác viên phải am hiểu lĩnh vực cần theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật thực hiện theo chế độ hợp đồng theo từng vụ việc cụ thể, trừ trường hợp cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật là cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Đánh giá tác động của việc thi hành pháp luật đối với đời sống kinh tế, xã hội
Nghị định 32/2020/NĐ-CP cũng bổ sung Điều 10a quy định về xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật. Cụ thể, trên cơ sở kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước được giao.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xem xét, đánh giá tác động tích cực, tác động tiêu cực của việc thi hành các quy định của pháp luật đối với đời sống kinh tế, xã hội.
Kịp thời xử lý văn bản trái luật
Ngoài ra, Nghị định 32/2020/NĐ-CP cũng bổ sung quy định về xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Theo đó, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kịp thời xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật; tổng hợp, nghiên cứu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị trực thuộc kịp thời xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật; tổng hợp việc xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong báo cáo hằng năm gửi Bộ Tư pháp.
Trong trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc quyết định áp dụng pháp luật chưa bảo đảm tính chính xác, vi phạm quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp phải ban hành văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền kịp thời đính chính, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ, ban hành mới văn bản theo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp có quy định trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp phải kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật theo thẩm quyền được quy định tại Điều 118, Điều 119 và Điều 120 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Phát động các đợt thi đua cao điểm, thi đua nước rút
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại phiên họp lần thứ 73 của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
Năm 2020 là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước: Tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Đây là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020, tạo tiền đề để cả nước phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm 2021 - 2025.
Do đó, để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu công tác thi đua, khen thưởng cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm.
Trong đó, tổ chức phát động các phong trào thi đua, bám sát nhiệm vụ chính trị của từng bộ, ngành, địa phương và của đất nước, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và kế hoạch 05 năm (2016 - 2020), thiết thực chào mừng các ngày lễ kỷ niệm lớn trong năm 2020.
Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát động các đợt thi đua cao điểm, thi đua nước rút, tập trung giải quyết các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, đặc biệt trong tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, cần đẩy mạnh thi đua trong các cấp, các ngành và nhân dân cả nước, huy động sự chung tay, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, góp phần sớm khống chế, đẩy lùi dịch bệnh.
Đồng thời, tiếp tục triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp phong trào "Cán bộ, công chức, viên chức, thi đua thực hiện văn hóa công sở”, tạo sự chuyển biến tích cực, góp phần tăng cường cải cách hành chính, kỷ luật, kỷ cương, hiệu quả làm việc trong cơ quan, công sở....
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương phối hợp với các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2021 - 2025, trong đó tập trung thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nâng cao.
Tổ chức thành công Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, để thực sự là Đại hội biểu dương tôn vinh các điển hình tiên tiến trong toàn quốc, là kết tinh thành quả của các phong trào thi đua yêu nước trong 05 năm qua; đồng thời tiếp tục phát động sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa các phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2021 - 2025.
Các bộ, ngành, địa phương tổ chức Đại hội thi đua yêu nước các cấp, đảm bảo trang trọng, thiết thực, với nội dung, hình thức phong phú, tiết kiệm; lựa chọn, biểu dương, tôn vinh các tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong 5 năm qua, tạo không khí thi đua sôi nổi chào mừng Đại hội Đảng các cấp. Các đồng chí thành viên Hội đồng trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc việc tổ chức Đại hội thi đua yêu nước tại các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt đối với các đơn vị được chọn Đại hội điểm (Bộ Quốc phòng, tỉnh Nghệ An và thành phố Hồ Chí Minh).
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng các phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả, các mô hình, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, góp phần đẩy lùi thông tin xấu, độc. Tập trung cao điểm tuyên truyền trước, trong và sau dịp tổ chức Đại hội thi đua yêu nước, các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước và của các bộ, ngành, địa phương.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thực hiện tốt và nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, bảo đảm kịp thời, đúng quy định, có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc phát hiện, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích, cá nhân dũng cảm cứu người, cứu tài sản, tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp.
Tăng cường phối hợp công tác giữa Chính phủ và MTTQ Việt Nam
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị đánh giá việc thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2019 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2020.
Thông báo kết luận nêu rõ, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội toàn cầu, trong đó có nước ta; vị thế, vai trò, trách nhiệm của Việt Nam được nâng cao trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch AIPA, đòi hỏi sự huy động mạnh mẽ, khơi dậy sức mạnh của toàn dân tộc, sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị để cùng vượt qua khó khăn, thử thách, thể hiện tinh thần, ý chí, khát vọng vươn lên của Việt Nam.
Để tiếp tục phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và Chính phủ phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra cho năm 2020 và 5 năm giai đoạn 2016-2020, chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thống nhất phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm.
Hai bên phối hợp chặt chẽ tiếp tục tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của Nhân dân nhằm chủ động, tự giác phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vi rút Covid-19 (Corona); đề cao cảnh giác, thực hiện nghiêm các y lệnh của ngành Y tế, giữ thái độ bình tĩnh, bảo đảm an toàn, sức khỏe của bản thân và cộng đồng xã hội; hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, vừa bảo đảm phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong năm 2020 và những năm tiếp theo.
Đồng thời, tiếp tục triển khai thực hiện các Chỉ thị, Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị; củng cố, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát động, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động, kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện quan trọng của đất nước; đổi mới, đa dạng hóa phương thức hoạt động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp, tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin với các Bộ, ngành, địa phương, nắm bắt tình hình dư luận, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, đặc biệt lưu ý dư luận trên các trang mạng xã hội.
Thực hiện tốt các hoạt động đối ngoại, vận động, tăng cường đoàn kết đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kết nối người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc; nghiên cứu, đề xuất các chính sách đối với cốt cán phong trào trong các tôn giáo, tăng cường phát huy vai trò của các tôn giáo đối với xã hội, nhất là trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, dạy nghề, bảo vệ môi trường và thực hiện an sinh xã hội.
Bên cạnh đó, phối hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động nhằm thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào sản xuất kinh doanh, đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc; phấn đấu hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội năm 2020 và 5 năm giai đoạn 2016-2020, chú trọng một số lĩnh vực như: giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội; an toàn giao thông, phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS..., góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Phát huy dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, hệ thống công nghệ, cổng thông tin quốc gia liên thông, xây dựng Chính phủ điện tử; triển khai các Kế hoạch, chương trình giám sát đã thống nhất trong giai đoạn 2016 – 2020, tập trung vào một số lĩnh vực, nội dung: giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chấp hành chính sách, pháp luật về bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, giáo dục và đào tạo, nâng cao chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia...
Tăng cường hơn nữa vai trò của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trong việc xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm tính thực tiễn cao, đáp ứng quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Phê chuẩn Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa
Thủ tướng Chính phủ vừa phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Nguyễn Tấn Tuân, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc
Nghiên cứu quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc đến năm 2050, đưa ra lộ trình đầu tư phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, đảm bảo kết nối ngành, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, một trong các nội dung chủ yếu của nhiệm vụ lập quy hoạch là phân tích, đánh giá về các yếu tố, điều kiện tự nhiên, nguồn lực, bối cảnh và đánh giá hiện trạng, thực trạng hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc, sự phân bố các cảng hàng không, sân bay trên toàn quốc. Rà soát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch thời kỳ trước (bao gồm cả Quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 236/QĐ-TTg).
Bên cạnh đó, nghiên cứu phương pháp dự báo về vận chuyển hàng không theo hướng dẫn của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA), Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) hoặc tham khảo kinh nghiệm các nước tiên tiến trên thế giới. Từ đó dự báo xu thế phát triển, xác định nhu cầu và yêu cầu về vận chuyển hàng không dân dụng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát triển kinh tế vùng, địa phương và các kịch bản phát triển ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc trong thời kỳ quy hoạch.
Đánh giá về mối liên kết của hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc trong ngành hàng không dân dụng, liên kết vùng; đánh giá tính đồng bộ của Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với các phương thức vận tải khách như đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, hàng hải...
Xác định yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đối với hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc; những cơ hội và thách thức phát triển của hệ t hống cảng hàng không, sân bay toàn quốc.
Xây dựng phương án tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc bao gồm các nội dung: Xác định quy mô, mạng đường bay khai thác của hệ thống cảng hàng không sân bay; xác định quy hoạch phát triển đối với từng cảng hàng không, sân bay bao gồm: Loại hình, vai trò, vị trí, quy mô (bao gồm cả việc xác định các cảng hàng không chính, trung chuyển của Việt Nam); dự báo các trục đường bay dự kiến khai thác trong mạng cảng hàng không, đặc biệt là các cảng hàng không hiện hữu lớn như: Nội Bài, Cát Bi, Đà Nẵng, Long Thành... để có định hướng dự trữ đất đai phục vụ phát triển (như dự trữ xây dựng thêm đường cất hạ cánh và các công trình dịch vụ) hoặc nghiên cứu bổ sung cảng hàng không, sân bay mới.
Nghiên cứu, rà soát đề xuất phát triển các trung tâm đào tạo phi công tại cảng hàng không, sân bay; nghiên cứu, rà soát đề xuất phát triển hàng không chung; nghiên cứu, rà soát phát triển đô thị cảng hàng không có tiềm năng; nhu cầu sử dụng đất, ước toán chi phí đầu tư.
Rà soát, cập nhật kết quả các nghiên cứu, quy hoạch các cảng hàng không đã hoặc đang được nghiên cứu, quy hoạch trong giai đoạn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 như cảng hàng không, sân bay quốc tế Nội Bài...
Xây dựng danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư của hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc và thứ tự ưu tiên thực hiện, trong đó cần phân tích và đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định danh mục các dự án ưu tiên đầu tư (ví dụ như: nhu cầu, tính khả thi về kinh tế, tính khả thi về tài chính, tác động đến ngành và kinh tế xã hội vùng, miền, phù hợp với chính sách phát triển quốc gia và quy hoạch cao hơn...).
2 huyện của tỉnh Thái Bình đạt chuẩn nông thôn mới
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký Quyết định 338/QĐ-TTg, Quyết định 340/QĐ-TTg công nhận huyện Vũ Thư và huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) năm 2019.
Phó Thủ tướng giao UBND tỉnh Thái Bình có trách nhiệm công bố và khen thưởng theo quy định, chỉ đạo huyện Vũ Thư, huyện Đông Hưng tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, chú trọng tiêu chí về sản xuất và môi trường để đảm bảo tính bền vững trong xây dựng nông thôn mới./.