Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 1326/QĐ-TTg bổ sung 1.553.518,172 triệu đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2021 cho Bộ Quốc phòng để phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
Số kinh phí trên bổ sung cho Bộ Quốc phòng để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao (tiếp nhận công dân cách ly y tế tập trung; kiểm soát, ngăn chặn người nhập cảnh trên toàn tuyến biên giới; xét nghiệm, phòng, chống dịch tại các địa phương…); chi trả chế độ đặc thù phòng, chống dịch theo quy định tại Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 8/2/2021; kinh phí hỗ trợ tiền ăn và bồi dưỡng chống dịch COVID-19 trong 5 ngày Tết Nguyên Đán năm Tân Sửu 2021 theo quy định tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 9/2/2021.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung và số liệu báo cáo.
Việc quản lý, sử dụng, thanh quyết toán số kinh phí được bổ sung bảo đảm đúng quy định của pháp luật có liên quan, đúng mục đích, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả.
Thủ tướng Chính phủ lưu ý, kinh phí đảm bảo doanh trại (vật dụng thiết yếu phục vụ sinh hoạt của công dân; sửa chữa doanh trại, điện nước, phương tiện và xăng, dầu…) đảm bảo không trùng lặp với số kinh phí đã được bổ sung tại Quyết định số 420/QĐ-TTg ngày 26/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về bổ sung kinh phí phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus Corona gây ra và Quyết định số 1384/QĐ-TTg ngày 8/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ về bổ sung kinh phí cho Bộ Quốc phòng để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19 (lần 2).
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng COVID-19 trong nước và trực tuyến với Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ tại TPHCM
Văn phòng Chính phủ vừa phát đi Thông báo số 200/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng COVID-19 trong nước và trực tuyến với Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ tại TPHCM.
Thông báo nêu rõ: Tình hình dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường tại nhiều tỉnh, thành phố, nhất là tại TPHCM, các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An… Để nhanh chóng kiểm soát tình hình dịch bệnh, thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân. thì một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu là cần có đủ, nhanh nhất vaccine phòng bệnh, và để chủ động về vaccine thì cần phải sản xuất được vaccine trong nước. Việc nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước luôn được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 quan tâm chỉ đạo theo từng giai đoạn của dịch và tiến độ nghiên cứu, sản xuất vaccine.
Để triển khai có hiệu quả việc nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan liên quan phải luôn lưu ý đối với việc nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước, cần phải dành sự quan tâm đặc biệt để nhanh nhất, sớm nhất có thể sản xuất được vaccine trong nước; trình tự, thủ tục hành chính có thể rút gọn tối đa, nhưng phải đặt tính mạng, sức khỏe của người dân lên trên hết, trước hết và phải bảo đảm các nguyên tắc, quy định về pháp lý, khoa học và thực tiễn.
Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ có liên quan hoàn thiện báo cáo của Chính phủ báo cáo Quốc hội đưa nội dung về nghiên cứu, sản xuất vaccine vào Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế-xã hội tại kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội khóa XV.
Đồng thời, Bộ Y tế khẩn trương sửa đổi, bổ sung thông tư theo trình tự rút gọn để hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng, đăng ký, lưu hành vaccine trong trường hợp cấp bách, trên cơ sở cụ thể hóa quy định của luật pháp, tham khảo quy trình của các nước như: Trung Quốc, Anh, Nga, Mỹ, Cuba, Ấn Độ,… đã thực hiện việc cấp phép vaccine phòng COVID-19 trong tình hình hiện nay; phù hợp với luật pháp điều kiện của Việt Nam.
Khẩn trương thành lập tổ công tác do một đồng chí lãnh đạo bộ phụ trách, dành ưu tiên đặc biệt cho việc lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước, hỗ trợ đối với từng loại vaccine; mời các chuyên gia trong nước, chuyên gia của WHO hỗ trợ trực tiếp các đơn vị tham gia nghiên cứu trong việc thu thập, phân tích dữ liệu, báo cáo kết quả nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng các loại vaccine, nhất là đối với vaccine đang được thử nghiệm lâm sàng như Nanocovax, COVIVAC. Hướng dẫn nhà sản xuất xây dựng hồ sơ đăng ký cấp phép theo quy trình rút gọn vaccine COVID-19 sản xuất trong nước để trình các hội đồng chuyên môn xem xét theo quy định trong thời gian sớm nhất.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan tiếp tục chỉ đạo, thúc đẩy tiến độ nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 và sớm có kế hoạch gối đầu nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 của các vaccine đang được nghiên cứu, sản xuất ở trong nước.
Chỉ đạo thúc đẩy, hỗ trợ tối đa cho các nghiên cứu sản xuất thuốc điều trị COVID-19; chỉ đạo việc cung ứng ngay các loại thuốc hỗ trợ, nâng cao sức khỏe; hướng dẫn sử dụng các phương pháp y học cổ truyền, bài thuốc dân gian… cho người bệnh nhiễm COVID-19, người trong khu cách ly. Góp phần ổn định tâm lý cho người bệnh, người dân.
Các Bộ: Y tế, Khoa học và Công nghệ, Tư pháp và các bộ, cơ quan liên quan hỗ trợ tối đa các nhà nghiên cứu, sản xuất trong việc thực hiện quy trình đánh giá tính sinh miễn dịch, sớm hoàn thành quy trình đánh giá tính sinh miễn dịch; tham khảo quy trình cấp phép vaccine phòng COVID-19 của một số nước, rút ngắn trình tự, thủ tục, sớm đánh giá được kết quả thử nghiệm, tiến hành các thủ tục cấp phép nếu vaccine đạt hiệu quả; bảo đảm đúng quy định của luật pháp trên cơ sở khoa học và thực tiễn; tập trung, hỗ trợ tích cực đối với các dự án chuyển giao công nghệ và nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng vaccine thông qua chuyển giao công nghệ.
Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương xây dựng quy trình, điều kiện, tiêu chuẩn cho việc chuyển giao công nghệ và quy trình, hồ sơ nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng đối với các dự án chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine; phối hợp với Bộ Tài chính xem xét kinh phí nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 nhằm bảo đảm tính khả thi của việc nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng vaccine COVIVAC.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế quy định cụ thể tiêu chuẩn, quy trình, định mức hỗ trợ cho việc nghiên cứu, sản xuất vaccine và kinh phí đầu tư nâng cấp quy mô sản xuất vaccine COVID-19 trong nước từ các nguồn kinh phí hợp pháp; bảo đảm rõ ràng, công bằng, bình đẳng đối với tất cả các đơn vị tham gia nghiên cứu, cắt giảm tối đa thủ tục có tính hành chính.
Các bộ, ngành trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình, bám sát các chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Phó Thủ tướng, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện có hiệu quả việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine trong nước; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Kiên quyết không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong việc nghiên cứu, phát triển vaccine để Việt Nam có được vaccine sản xuất trong nước nhanh nhất, sớm nhất.
Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030
Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước, có ý chí tự cường, tự hào dân tộc; có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng vươn lên xây dựng đất nước; có đạo đức, ý thức công dân, chấp hành pháp luật; có sức khỏe và lối sống lành mạnh; có văn hóa, kiến thức, trình độ học vấn, kỹ năng sống, nghề nghiệp và việc làm; có ý chí lập thân, lập nghiệp, năng động, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ…
Đó là nội dung tại Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định 1331/QĐ-TTg.
Chiến lược đề ra 6 mục tiêu cụ thể: 1- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; cung cấp thông tin về tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho thanh niên; 2- Giáo dục, nâng cao kiến thức, kỹ năng; tạo điều kiện để thanh niên bình đẳng về cơ hội học tập, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo; 3- Nâng cao chất lượng đào tạo nghề và tạo việc làm bền vững cho thanh niên; phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; 4- Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho thanh niên; 5- Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho thanh niên; 6- Phát huy vai trò của thanh niên trong tham gia phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, đến năm 2030, phấn đấu 80% thanh niên được tư vấn hướng nghiệp và việc làm; 60% thanh niên được đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, ưu tiên việc làm tại chỗ. Hằng năm, có ít nhất 700.000 thanh niên được giải quyết việc làm.
Đến năm 2030, tỉ lệ thanh niên thất nghiệp ở đô thị dưới 7%; tỉ lệ thanh niên thiếu việc làm ở nông thôn dưới 6%.
Hằng năm, trên 80% thanh niên ở đô thị; 70% thanh niên ở nông thôn; 60% thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được tạo điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở nơi học tập, làm việc và cư trú.
Đến năm 2030, ít nhất 50% thanh niên sử dụng thành thạo các phương tiện kĩ thuật số phục vụ mục đích giao tiếp, truyền thông, kinh doanh trên nền tảng kinh tế số.
Một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Chiến lược là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật.
Cụ thể, tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Luật Thanh niên năm 2020, Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên.
Đổi mới nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện địa bàn; trong đó, chú trọng nhóm thanh niên dễ bị tổn thương, thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.
Đẩy mạnh truyền thông về sự cần thiết và nhu cầu được nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khỏe của thanh niên; trong đó, chú trọng đào tạo, nâng cao kỹ năng tư vấn, truyền thông cho đội ngũ cung cấp dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho thanh niên. Tăng cường tuyên truyền về phòng, chống tác hại của thuốc lá, lạm dụng rượu, bia và các chất kích thích khác; dự phòng bệnh không lây nhiễm; phòng ngừa vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội trong thanh niên.
Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giới thiệu, phổ biến các tác phẩm văn hóa nghệ thuật có giá trị nhân văn cao để định hướng, giáo dục thanh niên. Khuyến khích thanh niên tham gia hoạt động và sáng tạo trong văn hóa, thể dục, thể thao; gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Phát triển mạng xã hội có định hướng tích cực, lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của thanh niên trên không gian mạng; quản lý việc sử dụng mạng xã hội thiếu chuẩn mực, thiếu văn minh của thanh niên; có chế tài xử lý các hoạt động, dịch vụ, trò chơi trực tuyến thiếu lành mạnh, bạo lực gây tác động xấu đến thanh niên và xã hội.
Nhiệm vụ, giải pháp khác là tăng cường cung cấp dịch vụ, hoạt động hỗ trợ thanh niên.
Theo đó, đổi mới hình thức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thanh niên học tập, sáng tạo, nghiên cứu khoa học; thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; xây dựng các chương trình đào tạo ngoại ngữ trên mạng Internet nhằm tạo điều kiện để thanh niên là học sinh ở các vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi được tiếp cận, học tập miễn phí.
Triển khai cơ chế hợp tác giữa các trường đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở nghiên cứu với các tổ chức kinh tế; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động theo hướng hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn; tổ chức các cuộc thi tay nghề, sáng kiến cho thanh niên.
Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ về việc làm và khởi nghiệp; định hướng và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; chăm sóc sức khỏe; tư vấn và trợ giúp pháp lý cho thanh niên.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ tư vấn tâm lý cho thanh niên; đầu tư, xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục, thể thao, công trình phúc lợi xã hội cho thanh niên; trong đó, chú trọng đối tượng thanh niên di cư, thanh niên công nhân tại các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất.
Kiện toàn BCĐ xây dựng Nhà Quốc hội Lào
Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1330/QĐ-TTg kiện toàn thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng Nhà Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Ban Chỉ đạo). Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành làm Trưởng ban.
Các Phó Trưởng Ban gồm: Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị (Phó Trưởng Ban Thường trực); Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Đặng Khánh Toàn.
Các Ủy viên là đại diện lãnh đạo các cơ quan: Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ; các Bộ: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Quốc phòng, Ngoại giao, Công an, Tài chính.
Danh sách thành viên Ban Chỉ đạo này thay thế danh sách ban hành kèm theo Quyết định số 1204/QĐ-TTg ngày 16/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo quy định tại Điều 2, Điều 3 của Quyết định số 1204/QĐ-TTg ngày 16/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Nhà Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giữ nguyên không thay đổi.
Thủ tướng phê chuẩn Chánh Văn phòng UBND tỉnh giữ chức Phó Chủ tịch tỉnh Quảng Nam
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 1329/QĐ-TTg phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ 2021 – 2026 đối với ông Trần Anh Tuấn, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Quảng Nam.
Chuyển mục đích sử dụng đất tại tỉnh Trà Vinh
Thủ tướng Chính phủ đồng ý UBND tỉnh Trà Vinh quyết định chuyển mục đích sử dụng 38,5 ha đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm về nội dung thẩm định.
Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh chỉ đạo thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nêu trên theo đúng quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về quản lý, sử dụng đất trồng lúa và các pháp luật khác có liên quan; chịu trách nhiệm toàn diện trước pháp luật, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức, triển khai thực hiện theo đúng và đầy đủ quy định của pháp luật, bao gồm cả việc lựa chọn dự án, giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, bảo đảm công khai, minh bạch, chặt chẽ không để xảy ra tham nhũng, thất thoát ngân sách Nhà nước, khiếu kiện.
Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, theo dõi, giám sát việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nêu trên theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với diện tích 29,41 ha còn lại, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường làm rõ ý kiến thẩm định.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp với Đài Truyền hình Việt Nam về tình hình hoạt động và định hướng phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam trong giai đoạn mới
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo 202/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp với Đài Truyền hình Việt Nam về tình hình hoạt động và định hướng phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam trong giai đoạn mới.
Trong Thông báo, Thủ tướng kết luận: Thời gian qua, tập thể cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, nhân viên của Đài Truyền hình Việt Nam đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, khẳng định được vị thế của Đài truyền hình quốc gia.
Với vai trò là Đài truyền hình quốc gia, Đài Truyền hình Việt Nam đã: (1) nhanh nhạy, kịp thời phát hiện, thông tin về những vấn đề mới, vấn đề “nóng”, được công chúng trong và ngoài nước quan tâm. Các chương trình, hoạt động của Đài đã trở thành cầu nối quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. (2) Luôn tiên phong trong đổi mới, sáng tạo; xây dựng đội ngũ cán bộ càng ngày càng trưởng thành, luôn nỗ lực, tâm huyết, trách nhiệm, yêu nghề. (3) Cơ sở vật chất của Đài ngày càng được cải thiện, khang trang hơn, đàng hoàng hơn, điều kiện tác nghiệp được đầu tư hiện đại hơn. (4) Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số. (5) Nhanh nhạy trong hội nhập quốc tế.
Những thành tích Đài Truyền hình Việt Nam đạt được trong thời gian qua là rất cơ bản, nổi bật, rất đáng trân trọng, tự hào, nhất là trên mặt trận tư tưởng, góp phần quan trọng vào thành tựu 35 năm đổi mới của Đảng, Nhà nước ta, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của đất nước.
Bên cạnh kết quả đạt được đáng khích lệ, Đài Truyền hình Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, còn những hạn chế, bất cập, cần thẳng thắn nhìn nhận, xác định rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, tìm giải pháp khắc phục để phấn đấu vươn lên, trưởng thành và khẳng định mình, với tinh thần “không say sưa, không ngủ quên trên vòng nguyệt quế”.
Một là, trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông mới phát triển rất nhanh, đặt ra cho Đài Truyền hình Việt Nam yêu cầu bức thiết về chuyển đổi số. Hai là, nguồn lực còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ và sự cạnh tranh khốc liệt của truyền thông, trong đó có nguồn lực con người, cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo. Ba là, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị vẫn còn hạn chế, bất cập, có lúc chưa đáp ứng được sự mong muốn của nhân dân, của Đảng và Nhà nước. Bốn là, đội ngũ cán bộ còn bất cập so với yêu cầu, chính sách đãi ngộ chưa tạo được nhiều động lực để cán bộ gắn bó lâu dài với nghề; điều kiện làm việc vẫn còn hạn chế; công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức, phù hợp.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất chia sẻ với Đài Truyền hình Việt Nam về những khó khăn, hạn chế, bất cập nêu trên.
Thủ tướng đưa ra mục tiêu đối với Đài Truyền hình Việt Nam là phải tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của Đài truyền hình quốc gia trên mặt trận tư tưởng, trong công tác truyền thông của hệ thống chính trị; dứt khoát không để mất kiểm soát mặt trận tư tưởng, không để mất lòng tin của nhân dân, gây hoang mang, dao động, nghi ngờ trong dư luận; giữ vững bản lĩnh, uy tín của Đài truyền hình quốc gia, xứng đáng với sự yêu quý của khán giả, nhân dân và sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước.
Xây dựng Đài Truyền hình Việt Nam trở thành đài truyền hình có “thương hiệu” trong khu vực, vươn tầm quốc tế nhưng vẫn phải giữ vững bản sắc văn hóa, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, phù hợp với tình hình, với mong muốn của nhân dân. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào Đài Truyền hình Việt Nam cũng phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thủ tướng yêu cầu Đài Truyền hình Việt Nam phải xác định: khó khăn, thách thức cũng là động lực, cơ hội để Đài Truyền hình Việt Nam phấn đấu trưởng thành, vươn lên. Giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, cầu thị, khiêm tốn, lắng nghe, trân trọng ý kiến phản biện để nghiên cứu tìm ra những giải pháp tốt nhất, phù hợp nhất, được nhiều người ủng hộ nhất để triển khai thực hiện. Tư tưởng chỉ đạo là: “những việc khó, mới, chưa có tiền lệ, chưa có quy định hoặc quy định không còn phù hợp thì mạnh dạn làm thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần không cầu toàn, không nóng vội”.
Phát huy tối đa tinh thần tự lực, tự cường, tự chịu trách nhiệm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Chủ động, tích cực, không ngừng đổi mới sáng tạo, thích ứng với tình hình. Trong đó, đội ngũ cán bộ là nền tảng, là trung tâm; chương trình hoạt động là động lực; cơ sở vật chất là điều kiện hỗ trợ quan trọng.
Bám sát, nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Sáng tạo, đổi mới hình thức, cách thức tuyên truyền, thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, hiệu quả với phương châm “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, truyền cảm hứng, tạo động lực để nhân dân vào cuộc, chia sẻ những khó khăn, thách thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần củng cố, tăng cường hơn nữa niềm tin của nhân dân, thực hiện tốt sứ mệnh của báo chí cách mạng Việt Nam.
Xây dựng chương trình truyền thông hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa các nội dung về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, căn cứ vào tình hình cụ thể, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương để có lựa chọn ưu tiên phù hợp, xác đáng không cứng nhắc, đảm bảo hiệu quả.
Thủ tướng lưu ý những nhiệm vụ, giải pháp mà Đài Truyền hình Việt Nam cần phải thực hiện là:
Thứ nhất, phát huy truyền thống đoàn kết, tôn vinh những điển hình tốt, cách làm hay, mô hình mới để góp phần tuyên truyền, nhân rộng.
Thứ hai, tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là người đứng đầu các cấp của Đài Truyền hình Việt Nam trên cơ sở bảo đảm đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình.
Thứ ba, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các cơ quan chuyên trách, đồng thời lắng nghe ý kiến của nhân dân để tổ chức sản xuất các chương trình phù hợp, hiệu quả trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thứ tư, tích cực tham gia chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tham gia xây dựng văn hóa, con người mới thông qua các chương trình, sản phẩm báo chí, truyền thông phong phú, đa dạng, chất lượng cao; tham gia phát triển công nghiệp văn hóa, giải trí.
Thứ năm, xây dựng Đài Truyền hình Việt Nam thành cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện thuộc Chính phủ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Theo đó, Đài Truyền hình Việt Nam cần xây dựng Đề án với các giải pháp cụ thể về: (i) nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, (ii) tăng cường nguồn lực tài chính (cả nguồn tự chủ của Đài, nguồn hỗ trợ của Chính phủ thông qua các phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ…), (iii) nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền (trong đó, ưu tiên và tập trung xây dựng kênh truyền hình đối ngoại quốc gia - VTV World, mở rộng cung cấp nội dung trên nền tảng số, nâng cao chất lượng thông tin, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc, đẩy mạnh tuyên truyền về bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc…), (iv) đẩy nhanh việc thực hiện chuyển đổi số…, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 1328/QĐ-TTg phê duyệt Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA).
VCA là tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác và tổ chức khác, được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động liên quan đến kinh tế tập thể, hợp tác xã tự nguyện tham gia (thành viên); bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ, giữ vai trò nòng cốt và thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với thành phần kinh tế tập thể, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
VCA có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng, hoạt động theo pháp luật Việt Nam và Điều lệ này; trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội.
VCA hoạt động trong phạm vi cả nước. VCA là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; được gia nhập làm thành viên của các tổ chức tương ứng trong khu vực và quốc tế theo quy định của pháp luật.
Hệ thống liên minh hợp tác xã Việt Nam gồm VCA và Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh) được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
VCA có nhiệm vụ đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên; đại diện cho các thành viên trong quan hệ với các tổ chức ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Đồng thời, đề xuất, kiến nghị tham gia xây dựng chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án liên quan đến phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; tư vấn, hỗ trợ, thực hiện dịch vụ công và hoạt động kinh tế phục vụ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; thúc đẩy xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, bền vững trong các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác.
Tập hợp, liên kết, hướng dẫn các thành viên hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; chung sức xây dựng hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát triển bền vững.
VCA có thành viên chính thức, thành viên liên kết và thành viên danh dự.
Tổ chức bộ máy của VCA gồm: Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực (gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch), Ủy ban Kiểm tra, Cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh ủy, thành ủy, sự quản lý Nhà nước của UBND cấp tỉnh và sự chỉ đạo, hướng dẫn của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Phó Thủ tướng giao bộ, địa phương chủ động quyết định tiếp nhận tài trợ xe cứu thương phòng, chống dịch bệnh
Văn phòng Chính phủ vừa phát đi văn bản số 5049/VPCP-KTTH về việc tiếp nhận xe ô tô cứu thương cho, tặng để phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh.
Văn bản của Văn phòng Chính phủ nêu rõ, xét đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc xin tiếp nhận xe ô tô cứu thương cho, tặng để phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái có ý kiến như sau:
Bộ Tài chính khẩn trương rà soát, tổng kết đánh giá việc thực hiện chủ trương tại Thông báo số 127/TB-VPCP ngày 10/3/2017 về việc chấm dứt tiếp nhận xe ô tô do doanh nghiệp biếu tặng; trên cơ sở đó đề xuất chủ trương thực hiện trong thời gian tới, bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, trên tinh thần không để xảy ra tiêu cực, trục lợi chính sách, đồng thời vẫn phát huy hiệu quả các nguồn lực của xã hội và tăng cường phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, nhất là trong bối cảnh phòng chống đại dịch COVID-19, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo đúng chỉ đạo tại văn bản số 1491/VPCP-KTTH ngày 22/6/2021.
Trước mắt khi chưa có chủ trương mới, để kịp thời huy động các nguồn lực cho công tác phòng chống đại dịch COVID-19, giao các bộ, cơ quan, địa phương chủ động xem xét, quyết định việc tiếp nhận xe cứu thương trong lĩnh vực y tế do tổ chức, cá nhân tài trợ phục vụ công tác phòng chống đại dịch COVID-19 thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định số 29/2018/NĐ-CP theo đúng quy định của pháp luật hiện hành; không áp dụng điểm 1 và điểm 3 Thông báo số 127/TB-VPCP ngày 10/3/2017 của Văn phòng Chính phủ. Việc tiếp nhận phảỉ bảo đảm tiêu chuẩn, định mức và các quy định liên quan theo Nghị định số 04/2019/NĐ-CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ.
Trong quá trình thực hiện nếu phát sinh vướng mắc, các bộ, ngành địa phương phản ánh về Bộ Tài chính để được hướng dẫn xử lý kịp thời; trường hợp phát sinh vấn đề vượt thẩm quyền, Bộ Tài chính đề xuất xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.