In bài viết

Thu NSNN đáp ứng kịp thời cải cách tiền lương, an sinh xã hội, chi đầu tư phát triển

(Chinhphu.vn) – Năm 2022, thu ngân sách nhà nước đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, thực hiện chính sách an sinh xã hội, cải cách tiền lương và các nhiệm vụ cấp thiết khác.

22/05/2023 13:01
Thu NSNN đáp ứng kịp thời cải cách tiền lương, an sinh xã hội, chi đầu tư phát triển, - Ảnh 1.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái trình bày Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KTXH và NSNN năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch KTXH và NSNN những tháng đầu năm 2023. Ảnh VGP

Sáng 22/5, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV đã trang trọng khai mạc tại Hội trường Diên Hồng, tòa nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.

Được sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Chính phủ đã trình bày Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) và ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch KTXH và NSNN những tháng đầu năm 2023.

Báo cáo cho biết, theo chương trình Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 40 báo cáo, tờ trình, tài liệu trên nhiều lĩnh vực. Trong đó có Báo cáo đầy đủ về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KTXH những tháng đầu năm 2023.

Nhiều chỉ tiêu tốt hơn số đã báo cáo Quốc hội

Về đánh giá bổ sung kết quả năm 2022, báo cáo của Chính phủ nêu rõ: Tại Kỳ họp thứ 4, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tình hình KTXH 9 tháng đầu năm và ước cả năm 2022.

Trong những tháng cuối năm 2022, Chính phủ chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ.

Đồng thời, tập trung kiểm soát dịch COVID-19; tích cực giải ngân vốn đầu tư công, đẩy mạnh triển khai các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia.

Thúc đẩy công tác quy hoạch, liên kết vùng, xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; bảo đảm quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.

Tình hình KTXH những tháng cuối năm tiếp tục phục hồi, đóng góp vào kết quả chung của cả năm 2022. Những nhận định, đánh giá Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 cơ bản phù hợp.

Đặc biệt, trong bối cảnh rất khó khăn, chúng ta vẫn thực hiện được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế ( trong đó: tổng thu NSNN năm 2022 ước đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, tăng 28,6% so với dự toán; xuất siêu 12,4 tỷ USD; xuất khẩu trên 7,1 triệu tấn gạo, trị giá 3,45 tỷ USD, gần 55 tỷ USD hàng nông sản; an ninh năng lượng được bảo đảm; thị trường lao động phục hồi tốt; cơ bản bảo đảm cung cầu lao động);

Đạt vượt 13/15 chỉ tiêu kế hoạch. Trong đó có 07 chỉ tiêu vượt : (1) Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (đạt 8,02% so với kế hoạch là khoảng 6 - 6,5%); (2) GDP bình quân đầu người (đạt 4.109 USD so với kế hoạch là 3.900 USD); (3) Số bác sĩ trên 10.000 dân (đạt 11,1 bác sĩ so với kế hoạch là 9,4 bác sĩ); (4) Số giường bệnh trên 10.000 dân (đạt 31 giường so với kế hoạch là 29,5 giường); (5) Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế (đạt 92,03% so với kế hoạch là 92%); (6) Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 73,06% so với kế hoạch là 73%); (7) Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn (đạt 96,28% so với kế hoạch là 89%).

Sáu chỉ tiêu đạt: (1) Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng bình quân (đạt 3,15%); (2) Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội (đạt 27,5%); (3) Tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ (đạt 27%); (4) Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị (đạt 2,79%); (5) Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (đạt 1,17%); (6) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường (đạt 91%).

Trong đó nhiều chỉ tiêu tốt hơn số đã báo cáo Quốc hội, như: GDP năm 2022 tăng 8,02% (đã báo cáo 8%); GDP bình quân đầu người đạt 4.109 USD (đã báo cáo là 4.075 USD); CPI bình quân tăng 3,15% (đã báo cáo khoảng 4%).

Thu NSNN đáp ứng kịp thời cải cách tiền lương, an sinh xã hội, chi đầu tư phát triển, - Ảnh 2.

Thu NSNN đáp ứng chi đầu tư phát triển, cải cách tiền lương, an sinh xã hội

Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2022, thu NSNN đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, cao hơn số đã báo cáo 201,4 nghìn tỷ đồng (tăng 12,5%), đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, thực hiện chính sách an sinh xã hội, cải cách tiền lương và các nhiệm vụ cấp thiết khác.

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 371,3 tỷ USD (đã báo cáo là 368 tỷ USD); xuất siêu đạt trên 12,4 tỷ USD (đã báo cáo là khoảng 01 tỷ USD).

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 3.219,8 nghìn tỷ đồng (cao hơn số đã báo cáo 18,3 nghìn tỷ đồng); vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% (đã báo cáo 6,4 - 11,5%).

Các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia tiếp tục giảm và trong giới hạn an toàn (tỷ lệ nợ công là 38% GDP; nợ Chính phủ là 34,7% GDP; nợ nước ngoài là 36,8% GDP).

Đời sống người dân tiếp tục được cải thiện

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện; đến hết năm 2022 đã hỗ trợ gần 104,5 nghìn tỷ đồng cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người lao động gặp khó khăn.

Thực hiện các chính sách hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 và bảo đảm an sinh xã hội từ năm 2020 đến hết năm 2022 theo Nghị quyết 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020, Nghị quyết 116/NQ-CP, ngày 24/9/2021, Nghị quyết 68/NQ-CP, ngày 01/7/2021, Quyết định 08/2022/QĐ-TTg, ngày 28/3/2022.

Đồng thời xuất cấp 25 nghìn tấn gạo, hỗ trợ cho 492 nghìn hộ với hơn 1,6 triệu nhân khẩu.

Quốc phòng, an ninh được củng cố; chủ quyền quốc gia được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế được tăng cường, phát huy hiệu quả; uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng lên.

Giá trị thương hiệu quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới

Giá trị thương hiệu quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới giai đoạn 2019-2022 (tăng 74%), năm 2022 đạt 431 tỷ USD, xếp thứ 32 trong nhóm 100 giá trị thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

Cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín là Moody's, S&P và Fitch đều duy trì, nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam (Moody's nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng "ổn định"; S&P nâng từ mức BB lên BB+, triển vọng "ổn định"; Fitch duy trì ở mức BB với triển vọng "tích cực").

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định Việt Nam là một điểm sáng trong "bức tranh xám màu" của kinh tế toàn cầu.

Những kết quả đạt được của năm 2022 là rất đáng trân trọng

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động nhanh, rất phức tạp và khó lường, những kết quả đạt được của năm 2022 là rất đáng trân trọng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Hội nghị Chính phủ với địa phương, ngày 3/1/2023: Nhờ có quyết tâm cao và sự nỗ lực phấn đấu, đóng góp to lớn, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã thực hiện thắng lợi, khá toàn diện mục tiêu, nhiệm vụ: Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.

Tuy nhiên, nước ta vẫn còn những hạn chế, khó khăn; trong đó có 02 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, gồm: Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 24,76% (kế hoạch là 25,5 - 25,8% và tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt 4,8% (kế hoạch là khoảng 5,5%).

Giải ngân vốn đầu tư công và triển khai thực hiện một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia chưa đạt yêu cầu; công tác lập quy hoạch còn chậm.

Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong huy động, tiếp cận vốn, chi phí sản xuất kinh doanh tăng, thị trường sản phẩm xuất khẩu bị thu hẹp; những bất cập tích tụ kéo dài của các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp chưa được xử lý thực sự hiệu quả.

Bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự an toàn xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân còn những bất cập.

Việc tháo gỡ vướng mắc trong quy định pháp luật, cơ chế, chính sách, ách tắc trong thực thi công vụ cần nỗ lực hơn nữa; kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm.

Phản ứng chính sách, công tác phối hợp trong một số trường hợp còn chậm, thiếu quyết liệt, bị động, lúng túng, hiệu quả chưa cao...

Trần Mạnh