Báo điện tử Chính phủ xin giới thiệu bài viết của GS.TS. Nguyễn Thị Cành (Trường ĐH Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TPHCM) như một góc nhìn tham khảo về hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để đảm bảo các yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế.
Kinh tế thị trường được định nghĩa và đề cập trong nhiều tài liệu là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh phải đảm bảo tính cạnh tranh bình đẳng giữa các bên tham gia thị trường và không có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước, Nhà nước chỉ quản lý nền kinh tế bằng pháp luật.
Các tổ chức quốc tế và hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đều yêu cầu Việt Nam cải cách thể chế kinh tế thị trường. Đường lối phát triển kinh tế của đất nước được khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng cũng như trong Hiến pháp năm 2013, là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước.
Sau 30 năm, quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo chính sách đổi mới và hội nhập đã mang lại kết quả tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế đã chuyển biến khá mạnh theo khu vực ngành và theo thành phần kinh tế. Nói cách khác, cải cách kinh tế đã mở cửa cho các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, góp phần tăng trưởng chung với tốc độ cao.
Mặc dù phần đóng góp của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vẫn giữ tỷ trọng cao trong GDP (trên 31%), nhưng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này vẫn chưa cao và ngày càng bộc lộ nhiều vấn đề cần giải quyết. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy khu vực DNNN thường kém hiệu quả hơn khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Về thể chế kinh tế, dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nhận định: Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước, kinh nghiệm thế giới cho thấy một giải pháp đã được chứng minh hiệu quả là loại hình công ty có sở hữu đan xen (sở hữu cộng đồng) có vốn Nhà nước. Lý thuyết kinh tế học phúc lợi cũng đã cho biết sự can thiệp của Nhà nước khi (1) Có thất bại của thị trường; (2) Có thông tin bất cân xứng, đặc biệt trong môi trường rủi ro cao; (3) khi có ngoại tác; và (4) khi có hàng hóa công, ví dụ cơ sở hạ tầng tài chính, các thể chế hỗ trợ thị trường khác.
Với những lý do trên, có thể thấy Nhà nước phải có vai trò trong kiến tạo thị trường, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các bên tham gia thị trường, để thị trường hoạt động hiệu quả, bằng việc tạo ra một hành lang pháp lý công bằng và có hiệu lực.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã nhấn mạnh yêu cầu Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển. Theo đó, Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội... Xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực mà còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng, những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn.
Định hướng lại lĩnh vực Nhà nước đầu tư
Từ lý thuyết và kinh nghiệm nêu trên, có hai vấn đề đặt ra. Đó là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước như thế nào và mức độ can thiệp của nhà nước đến đâu?
Dựa trên lý thuyết của Keynes có thể trả lời được câu hỏi thứ nhất, đó là Nhà nước làm cái gì mà tư nhân không làm. Điều này có nghĩa phải định hướng lại lĩnh vực mà Nhà nước cần đầu tư. Đó là những hàng hóa không tồn tại thị trường hoặc thị trường không hiệu quả thường tư nhân không tham gia, cụ thể là trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, cơ sở hạ tầng như cầu cống đường sá...
Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là phải cung cấp hàng hóa này không phải vì mục tiêu sinh lời mà vì mục tiêu xã hội hay lời xã hội. Như vậy, sẽ xuất hiện hai loại tổ chức kinh tế Nhà nước: (1) Loại tổ chức kinh tế ra đời vì lợi ích xã hội, lấy “lời xã hội” làm mục tiêu chính, có mục tiêu tồn tại phi lợi nhuận; (2) loại doanh nghiệp ra đời vì mục tiêu kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu chính.
Từ các phân tích nói trên, hướng tổ chức lại DNNN là Nhà nước tập trung đầu tư cho loại hình kinh tế thứ nhất (vì “lời xã hội”). Còn với loại hình thứ hai thì đa dạng hóa các loại hình sở hữu, định hướng lại mức độ tham gia của Nhà nước.
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang tồn tại các loại sở hữu sau. Loại thứ nhất, sở hữu công, tức là chế độ công hữu hay sở hữu của quốc gia. Loại thứ hai, sở hữu tư nhân, tức là tư hữu, bao gồm các tài sản gắn liền với nhân thân của mỗi công dân. Loại thứ ba, cộng đồng sở hữu được hình thành từ cơ sở của hai loại sở hữu nêu trên (Nhà nước và tư nhân) hoặc cộng đồng từ sở hữu tư nhân. Loại sở hữu cộng đồng này trong lĩnh vực kinh doanh thể hiện ở nhiều loại hình tổ chức kinh doanh như HTX, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Trong tiến trình đổi mới, nền kinh tế nước ta đang định hướng chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế sang loại hình thứ ba. Chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là một hướng phát triển đúng đắn, phù hợp với hướng chuyển dịch hình thức sở hữu, hình thành loại sở hữu cộng đồng dựa trên các chủ thể sở hữu cụ thể khác nhau. Ví dụ, trong một công ty cổ phần gồm có cổ phần của Nhà nước, của các cá nhân, của nhiều công ty. Một khi thị trường tài chính phát triển, thì cơ cấu sở hữu đó sẽ chuyển dịch và tự điều chỉnh, khi cần vốn cho đầu tư phát triển những lĩnh vực khác thì Nhà nước có thể thoái vốn từ các DNNN cổ phần hóa.
Quá trình đa dạng hóa sở hữu các loại hình doanh nghiệp chuyển dịch theo cách nói trên, chính là tính chất của nền kinh tế nhiều thành phần về sở hữu. Mặt khác, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chuyển đổi mạnh sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân và cộng đồng sở hữu sẽ xóa bỏ dần các DNNN độc quyền, chính là bước tiến mới về hoàn thiện thể chế thị trường để đáp ứng các yêu cầu hội nhập của Việt Nam.
Các công cụ của Nhà nước kiến tạo
Khi đã chuyển hóa các hình thức sở hữu theo thị trường, thì vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phải thể hiện bằng hệ thống các công cụ quản lý.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo ra một khung pháp lý cho mọi quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội, điều chỉnh các chủ thể của hoạt động kinh tế. Các mục tiêu của Nhà nước thể hiện bằng chính sách và chuyển hóa vào đời sống bằng cách chế định thành pháp luật. Ðây là công cụ quan trọng nhất của một Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay đang đi vào hướng tích cực, điều chỉnh các quan hệ kinh tế bằng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn nổi cộm vấn đề chấp hành pháp luật không nghiêm, việc xem thường pháp luật xẩy ra còn phổ biến.
Thứ hai, đổi mới nội dung và phương pháp kế hoạch hóa, chuyển từ chức năng phân phối sang chức năng dự báo, qui hoạch, thông tin và cân đối. Sự yếu kém của kế hoạch hóa sẽ làm cho nội dung quản lý kinh tế vĩ mô mất phương hướng.
Thứ ba, can thiệp và điều tiết "bàn tay vô hình" của cơ chế thị trường bằng các chính sách đòn bẩy kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chính sách tài chính quốc gia, tín dụng, tiền tệ, ngân hàng. Ðây là các lĩnh vực xung yếu nhất và nhạy bén nhất của kinh tế thị trường. Ai làm chủ được các lĩnh vực này, thì người đó sẽ điều khiển được mục tiêu của nền kinh tế.
Thứ tư, Nhà nước can thiệp vào thị trường trực tiếp bằng chính sản phẩm và dịch vụ của mình là những hàng hóa và dịch vụ công. Tức là can thiệp bằng chính hệ thống các DNNN hoặc các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước cung cấp các hàng hóa mà tư nhân không làm.
Cho đến nay, cả bốn hệ thống công cụ nêu trên của chúng ta, ở các khía cạnh khác nhau, đều có những hạn chế và những hạn chế của mỗi khâu có tác động liên hoàn đến toàn hệ thống, dẫn đến những vấn đề về chức năng quản lý nền kinh tế thị trường của Nhà nước. Đó là lý do cần đẩy mạnh cải cách thể chế để tiến tới một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh mà yêu cầu hội nhập đã và đang đặt ra cho Việt Nam.
Trong quá trình đó, sẽ là phù hợp nếu kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo thông qua việc nhà nước thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển và định hướng lại lĩnh vực mà Nhà nước cần đầu tư.
GS.TS. Nguyễn Thị Cành