Nhanh chóng triển khai thực hiện
Ngay sau khi Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (gọi tắt là Chương trình 135 giai đoạn II) ra đời, tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng thành lập Ban Chỉ đạo các cấp để triển khai thực hiện.
Với 16 xã và 26 thôn ĐBKK (tổng số 4899 hộ) được thụ hưởng Chương trình 135 giai đoạn II, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo quyết liệt, trong đó, ở cấp tỉnh, giao trách nhiệm chính cho Ban Dân tộc tỉnh, có sự tham gia của một số sở, ngành liên quan thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh. Riêng hai huyện miền núi Nam Đông và A Lưới phải thành lập Ban chỉ đạo cấp huyện. Các huyện còn lại như Hương Trà, Phú Lộc, Phong Điền với số lượng xã, thôn, bản thuộc diện thụ hưởng Chương trình 135 không nhiều thì giao cho phòng chuyên môn chủ trì thực hiện. Cấp huyện ra Quyết định thành lập BQL dự án 135 xã; cấp xã thành lập Ban giám sát xã với các thành phần theo như yêu cầu của cơ chế.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, Ban Chỉ đạo các cấp thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo để đánh giá kết quả thực hiện, trong đó đi sâu phân tích những mặt làm được, chưa được để cùng nhau thảo luận nhằm đưa ra các biện pháp khi triển khai, tổ chức thực hiện mang lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường thường xuyên nên việc triển khai chương trình đạt được nhiều kết quả rất tốt.
Kết quả mang lại
Sau hơn 4 năm thực hiện, tất cả 04 hợp phần trong Chương trình 135 giai đoạn II đều đã hoàn thành và vượt mức kế hoạch đề ra. Về xây dựng công trình hạ tầng, đến nay, đã xây dựng hoàn thành: 27,6 km đường giao thông bê tông và nhựa, 2 cầu bê tông kiên cố; 120 phòng học cho trường tiểu học cơ sở xã và các lớp học mẫu giáo tại các thôn; hoàn chỉnh các công trình phụ như hàng rào trường, sân trường, bếp ăn và các công trình phụ trợ khác; 8 trạm y tế với tổng diện tích 1.780m 2 phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh tại địa phương; 14 công trình thủy lợi nhỏ và kênh mương tưới tiêu cho 70 ha lúa nước. Đối với việc phát triển sản xuất, đã giúp 4.889 hộ được hưởng lợi qua các phương thức đầu tư như nâng cao năng lực (đã tổ chức 24 lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và công tác khuyến nông khuyến lâm); hỗ trợ giống cây con các loại (giống trâu cày, bò lai sind, lợn, dê, cá và các loại giống cây như lúa cấp I, ngô lai, lạc, chuối, cà phê, giống cây lâm nghiệp…); hỗ trợ vật tư, công cụ sản xuất (máy cày, cày tay, xe rùa, xe cải tiến, máy cắt cỏ, tuốt lúa, bình bơm, phân bón NPK các loại…); xây dựng 23 mô hình vườn nhà, vườn đồi và trồng cỏ nuôi bò, đào ao nuôi cá...
Công tácđào tạo cán bộ xã, thôn bản và cộng đồng cũng thường xuyên được chú trọng nâng cao. Tính đến nay, đã có hơn 1.866 lượt cán bộ xã, thôn, bản và 1.729 cộng đồng, người dân được đào tạo, tập huấn. Nội dung tập huấn tập trung vào 12 chuyên đề dành cho cán bộ xã, thôn, bản và 7 chuyên đề dành cho cộng đồng; đã tổ chức 14 khóa đào tạo nghề (may dân dụng, dệt thổ cẩm, tăm đũa tre, nghiệp vụ kế toán, kĩ thuật chăn nuôi thú y, kĩ thuật trồng trọt, phát triển kinh tế hộ gia đình,kĩ thuật trồng và chăm sóc cây cao su...) cho 340 thanh niên dân tộc thiểu số. Tổ chức đoàn tham quan học tập mô hình sản xuất có hiệu quả tại các tỉnh phía Nam , Tây nguyên và phía Bắc cho đối tượng là cán bộ, nông dân sản xuất giỏi của 16 xã ĐBKK. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật cũng được đẩy mạnh, từ đó, đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh đến trường, lớp; địa phương duy trì và tổ chức các lễ hội truyền thống; tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong công tác làm giấy khai sinh, hộ tịch; hỗ trợ lập giấy chứng nhận chủ quyền đất đai…
Đánh giá về hiệu quả Chương trình 135 giai đoạn II ở Thừa Thiên Huế, TS. Nguyễn Thị Sửu, Trưởng ban Dân tộc tỉnh cho biết: “Phải công nhận rằng, nhờ có Chương trình 135 giai đoạn II mà vùng dân tộc miền núi của tỉnh đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tỷ lệ hộ nghèo diện hưởng lợi giảm mạnh (từ trên 40% năm 2006 xuống còn 16,89% năm 2010 hộ nghèo), 100% số xã có trường Tiểu học và Trung học cơ sở được đầu tư kiên cố và bán kiên cố, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% xã có điện lưới quốc gia, 98% hộ sử dụng điện lưới, 87% hộ sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch, không còn tình trạng sử dụng nước sông suối nhiễm bẩn như trước đây.”.