In bài viết

Thuế đất phi nông nghiệp tính theo mục đích sử dụng

(Chinhphu.vn) - Cử tri tỉnh Thái Bình đề nghị Chính phủ nghiên cứu, trình sửa Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp vì còn bất hợp lý, cần quy định mức thuế theo mục đích sử dụng đất chứ không quy định theo vị trí miếng đất như hiện hành;

12/10/2015 11:02

Cử tri cũng đề nghị sửa Luật Thuế thu nhập cá nhân vì cho rằng theo quy định của Luật không công bằng, như mức giảm trừ gia cảnh quá cao, người thu nhập thấp khoảng 120 triệu đồng/năm đóng thuế để hỗ trợ cho người thu nhập nhiều tỷ đồng/năm mà không phải đóng khoản thuế thu nhập cá nhân nào, còn công chức thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng phải đóng thuế.

Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình như sau:

Về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Tại Điều 5, Điều 6, Điều 7 Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 48/2010/QH12 quy định:

"Điều 5. Căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế là giá tính thuế và thuế suất.

Điều 6. Giá tính thuế

3. Giá của 1m2 đất là giá đất theo mục đích sử dụng do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định và được ổn định theo chu kỳ 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành."

"Điều 7. Thuế suất

1. Thuế suất đối với đất ở bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau:

Bậc thuế

Diện tích đất tính thuế (m2)

Thuế suất (%)

1

Diện tích trong hạn mức

0,03

2

Phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức

0,07

3

Phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức

0,15

3. Đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư, công trình xây dựng dưới mặt đất áp dụng mức thuế suất 0,03%.

4. Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp áp dụng mức thuế suất 0,03%.

5. Đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật này sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng mức thuế suất 0,03%.

6. Đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định áp dụng mức thuế suất 0,15%. Trường hợp đất của dự án đầu tư phân kỳ theo đăng ký của nhà đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì không coi là đất chưa sử dụng và áp dụng mức thuế suất 0,03%.

7. Đất lấn, chiếm áp dụng mức thuế suất 0,2% và không áp dụng hạn mức. Việc nộp thuế không phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp thuế đối với diện tích đất lấn, chiếm."

Căn cứ các quy định nêu trên, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 48/2010/QH12 đã quy định rõ việc thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là theo mục đích sử dụng đất, cụ thể: Giá đất tính thuế là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định; thuế suất thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được quy định riêng đối với từng loại đất.

Về thuế thu nhập cá nhân

Luật Thuế thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013 sửa đổi tăng mức giảm trừ gia cảnh (GTGC) cho người nộp thuế từ 4 triệu đồng/người/tháng lên 9 triệu đồng/người/tháng có ý nghĩa xã hội, thể hiện sự chia sẻ của Nhà nước với nhân dân, nhất là trong bối cảnh lạm phát ở mức cao, đời sống còn khó khăn, thu nhập của người dân còn thấp.

Với mức GTGC như vậy sẽ giảm bớt gánh nặng về thuế đối với những người có thu nhập thấp. Những người có thu nhập cao hơn sẽ phải đóng thuế thu nhập cá nhân ở mức thuế suất cao hơn căn cứ theo biểu thuế lũy tiến từng phần, bao gồm 7 bậc thuế. Bậc thấp nhất là 5%, áp dụng đối với cá nhân có thu nhập tính thuế (thu nhập còn lại sau khi GTGC, giảm trừ các khoản đóng góp bảo hiểm bắt buộc,…) dưới 5 triệu đồng/người/tháng. Bậc cao nhất là 35% áp dụng đối với phần thu nhập tính thuế vượt trên 80 triệu đồng/người/tháng.

Ví dụ:

Theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân thì số thuế thu nhập cá nhân phải nộp của người có thu nhập từ tiền lương tiền công 120 triệu đồng/năm, tương đương 10 triệu đồng/tháng (giả sử cá nhân không có người phụ thuộc) là 50 nghìn đồng/tháng (chiếm 0,5% tổng thu nhập hàng tháng); của người có thu nhập từ tiền lương tiền công 600 triệu đồng/năm, tương đương 50 triệu đồng/tháng là 7 triệu đồng/tháng (chiếm 14% tổng thu nhập hàng tháng); của người có thu nhập từ tiền lương tiền công 1,2 tỷ đồng/năm, tương đương 100 triệu đồng/tháng là 22 triệu đồng/tháng (chiếm 22% tổng thu nhập hàng tháng).

(Số thuế thu nhập cá nhân phải nộp được tính theo phương pháp rút gọn hướng dẫn tại Phụ lục 01/PL-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính).

Từ ví dụ nêu trên cho thấy, người có thu nhập càng cao thì số thuế thu nhập cá nhân phải nộp càng lớn cả về số tuyệt đối và tỷ lệ thuế phải nộp trên tổng thu nhập.

Chinhphu.vn