Doanh nghiệp của bà rất băn khoăn về vấn đề này, do bản cam kết là trách nhiệm của cá nhân người lao động, Công ty không thể biết người lao động có thu nhập ở bao nhiêu nơi và khi người lao động gửi cam kết theo quy định Công ty không thể khấu trừ thuế thu nhập cá nhân. Bà Lâm đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống nêu trên.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Căn cứ Khoản 6 Điều 1 Luật số 26/2012/QH13 ngày 22/11/2012 của Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân như sau:
“6. Điều 24 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 24. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú
1. Trách nhiệm kê khai, khấu trừ, nộp thuế, quyết toán thuế được quy định như sau:
Căn cứ Điểm 1, Khoản 1, Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định về việc khấu trừ thuế của tổ chức trả thu nhập đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng như sau:
"i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác
Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.
Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế.
Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.”.
Từ các căn cứ nêu trên, về nguyên tắc, cá nhân được làm Bản cam kết để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân là cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế trong năm của cá nhân sau khi giảm trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế. Bản cam kết này chỉ áp dụng đối với cá nhân đã đăng ký thuế, có mã số thuế tại thời điểm cam kết.
Trường hợp doanh nghiệp của bà Lâm có chi trả thu nhập cho các cá nhân cư trú là lao động thử việc hoặc đào tạo nhưng không đạt yêu cầu nên không ký hợp đồng lao động (chỉ làm việc dưới 3 tháng) thì tại thời điểm cam kết chưa thể khẳng định các cá nhân này chỉ phát sinh một nguồn thu nhập duy nhất tại doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải thực hiện khấu trừ thuế theo quy định.
Chinhphu.vn