Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời câu hỏi của ông Hiệp như sau:
Theo quy định tại khoản 6, Điều 3, Luật Thuế TNCN và khoản 6, Điều 3 Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế TNCN, được hướng dẫn cụ thể tại điểm 6, Mục II, Phần A, Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính, thì thu nhập từ trúng thưởng là các khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân nhận được dưới các hình thức sau đây là thu nhập phải chịu thuế:
- Trúng thưởng xổ số do các công ty xổ số phát hành thực hiện
- Trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại khi tham gia mua bán hàng hoá, dịch vụ
- Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, đặt cược được pháp luật cho phép
- Trúng thưởng trong các casino được pháp luật cho phép hoạt động
- Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác do các tổ chức kinh tế, cơ quan hành chính, sự nghiệp, các đoàn thể và các tổ chức, cá nhân khác tổ chức.
Tại Điều 15, Luật Thuế TNCN quy định thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng là phần giá trị giải thưởng vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được theo từng lần trúng thưởng. Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.
Cũng theo quy định tại khoản 2, Điều 21 và khoản 2, Điều 23 của Luật này, thì thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng áp dụng biểu thuế toàn phần, thuế suất 10%.
Trách nhiệm của người trả và người nhận thưởng
Căn cứ khoản 1, Điều 24 Luật Thuế TNCN quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú như sau:
- Tổ chức, cá nhân trả thu nhập có trách nhiệm kê khai, khấu trừ, nộp thuế vào ngân sách nhà nước và quyết toán thuế đối với các loại thu nhập chịu thuế trả cho đối tượng nộp thuế;
- Cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách nhiệm kê khai, nộp thuế vào ngân sách nhà nước và quyết toán thuế đối với mọi khoản thu nhập theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Vấn đề ông Phạm Văn Hiệp hỏi, theo các quy định nêu trên, nếu giá trị phần thưởng lớn hơn 10 triệu đồng, thì người trúng thưởng có trách nhiệm kê khai, nộp thuế TNCN. Người trả thưởng khuyến mại có trách nhiệm kê khai, khấu trừ phần thưởng, nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
Trường hợp phần thưởng có giá trị lớn, người trúng thưởng không đủ khả năng tài chính nộp thuế thu nhập khi nhận phần thưởng đó, thì người trúng thưởng cần đề nghị người trả thưởng, khấu trừ tiền thuế từ giá trị của phần thưởng, để nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Nếu giá trị phần thưởng bằng tiền thì khấu trừ thuế bằng tiền. Nếu phần thưởng bằng hiện vật thì trả thưởng bằng hiện vật có giá trị thấp hơn (theo giá trị còn lại của hiện vật trúng thưởng, sau khi khấu trừ thuế); hoặc bán hiện vật trúng thưởng, khấu trừ thuế, trả bằng tiền cho người nhận thưởng.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.