* Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ NN&PTNT
* Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ VHTT&DL
* Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ Y tế
* Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ KHĐT
Từ 8.00' - 15.00': Quốc hội tiến hành chất vấn Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường.
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Phát biểu khai mạc phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, so với các phiên chất vấn trước đây, Quốc hội dành thêm nửa ngày để đáp ứng nguyện vọng của cử tri và ĐBQH.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, tính đến hết ngày 12/6 đã có 86 phiếu chất vấn và 98 câu hỏi gửi đến Thủ tướng và Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Thông qua phiếu xin ý kiến, UBTVQH đã nhận được 145 vấn đề chất vấn của 42 Đoàn ĐBQH. Theo báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Quốc hội đã nhận được 3.288 ý kiến kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 3. Đây là cơ sở quan trọng để UBTVQH chọn 4 nhóm vấn đề chất vấn trình Quốc hội quyết định.
Để hoạt động chất vấn đạt được hiệu quả, kết quả như mong muốn,Chủ tịch Quốc hội yêu cầu ĐBQH nêu câu hỏi ngắn gọn rõ ý, nằm trong nhóm vấn đề đã chọn, không đặt câu hỏi kiểu tìm hiểu thông tin hay nắm tình hình. Thời gian đặt câu hỏi không quá 2 phút một lần. Phiên chất vấn tiếp tục sử dụng quyền tranh luận, ĐBQH cần chuẩn bị nội dung tranh luận cụ thể, rõ ý. Chủ tịch Quốc hội cũng yêu cầu các thành viên Chính phủ trả lời thẳng, không né tránh, hướng khắc phục và giải pháp để Quốc hội có cơ sở giám sát việc thực hiện lời hứa.
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Chính phủ đã rất nghiêm túc, cầu thị
8.05': Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội Nguyễn Thanh Hải trình bày Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV (Toàn văn báo cáo của Ban Dân nguyện).
Báo cáo cho biết, đối với công tác điều hành của Chính phủ đã có 3.119/3.320 kiến nghị (chiếm 94%) với nội dung tập trung chủ yếu vào 9 nhóm vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; giải quyết việc làm và an sinh xã hội; văn hóa, giáo dục, y tế; kế hoạch, tài chính; sản xuất, kinh doanh, quản lý thị trường; giao thông vận tải, xây dựng; tài nguyên và môi trường; tinh giản biên chế, cải cách thủ tục hành chính; thanh tra, kiểm tra,giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Mặc dù nhận được số lượng kiến nghị cử tri rất lớn nhưng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Trưởng ngành đã rất tích cực chỉ đạo giải quyết, thể hiện sự nghiêm túc, cầu thị lắng nghe. Kết quả là ngay trong khoảng thời gian 6 tháng giữa hai kỳ họp toàn bộ 3.119 kiến nghị được trả lời, 94 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành; hàng nghìn cuộc thanh tra chuyên ngành đã được tổ chức qua đó phát hiện, xử lý nhiều vi phạm theo yêu cầu, kiến nghị của cử tri, kịp thời tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong sản xuất và đời sống người dân.
Đã có 2.124 kiến nghị (chiếm 68,1%) được trả lời dưới hình thức cung cấp thông tin cho cử tri về các lĩnh vực như: nông nghiệp, giáo dục, văn hóa, giao thông, quản lý trật tự đô thị,… Có 539 kiến nghị (chiếm 17,3%) đã được giải quyết xong. Hiện còn 456 kiến nghị (chiếm 14,6%) đang được xem xét, giải quyết.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra rằng, các bộ, ngành còn quá chú trọng tới việc trả lời các kiến nghị mà chưa quan tâm thỏa đáng tới việc giải quyết, hoặc xây dựng lộ trình giải quyết dứt điểm kiến nghị, dẫn đến thực trạng số lượng kiến nghị được trả lời là rất lớn nhưng chất lượng của việc giải quyết kiến nghị còn chưa cao, số kiến nghị được trả lời chỉ bằng việc cung cấp thông tin còn nhiều (68%), cá biệt có văn bản nội dung trả lời còn chưa rõ, chưa đúng, chưa đầy đủ với câu hỏi mà cử tri nêu. Bên cạnh đó, có nhiều kiến nghị đã được tiếp thu, bố trí nguồn lực để giải quyết đáp ứng mong đợi của cử tri, nhưng quá trình tổ chức triển khai còn nhiều bất cập khiến cử tri băn khoăn.
Nhằm nâng cao chất lượng kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri, báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội kiến nghị Chính phủ nên coi việc giải quyết kiến nghị của cử tri là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các Bộ trưởng, Trưởng ngành, đồng thời, sớm có hình thức nhắc nhở, xử lý đối với cá nhân, cơ quan, không thực hiện trả lời cử tri theo quy định và công khai để cử tri được biết. Sớm ban hành quy chế tiếp nhận, giải quyết, trả lời kiến nghị cử tri để việc giải quyết được kịp thời, đúng pháp luật
Đối với các kiến nghị còn tồn đọng qua một số kỳ họp, kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành rà soát xây dựng lộ trình giải quyết và thông báo cho cử tri bằng văn bản trước ngày 15/9/2017. Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Trưởng ngành quan tâm chỉ đạo giải quyết dứt điểm những kiến nghị còn tồn đọng trước kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2018) trong đó, đặc biệt quan tâm giải quyết 5 nhóm vấn đề: (1) Biện pháp khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý, khai thác tài nguyên khoáng sản, trước mắt có giải pháp nhanh, mạnh ngăn chặn hiện tượng khai thác cát trái phép đang gây bức xúc trong Nhân dân. (2) Vấn đề thương hiệu nông sản, thực phẩm, thu hút đầu tư cho nông nghiệp; giải pháp hỗ trợ nông dân trong sản xuất, đặc biệt là tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, rau quả sạch ngay tại thị trường nội địa. (3) Tăng cường chất lượng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đặc biệt thanh tra trách nhiệm người đứng đầu tại các dự án thua lỗ mà dư luận đặc biệt quan tâm thời gian qua. (4) Nâng cao chất lượng tiếp công dân, đối thoại với công dân, gắn tiếp công dân với việc giải quyết để kịp thời xử lý những bức xúc, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai không làm phát sinh điểm nóng về khiếu kiện. (5) Có biện pháp khắc phục ngay tình trạng nhà xây tại dự án vùng ngập lũ khu vực đồng bằng sông Cửu Long để hoang phí, không có người ở do thiếu hạ tầng kỹ thuật.
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
8.25': Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường là "Tư lệnh ngành" đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn 3 nhóm vấn đề: Giải pháp đột phá và lộ trình thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong thời gian tới; Biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển nông nghiệp bền vững; Công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, quản lý các hoạt động khai thác thủy sản.
Đầu giờ sáng đã có 68 đại biểu đăng ký chất vấn Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường.
Các đại biểu Tôn Thị Ngọc Hạnh (Bình Phước); Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh); Nguyễn Thị Ngọc Lan (Bắc Ninh); Trần Thị Hiền (Hà Nam); Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng); Nguyễn Chiến (Hà Nội)... chất vấn về: Giải quyết bất cập để DN, HTX tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi 100.000 tỷ; giải quyết cơ chế xin cho trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao; giải pháp căn cơ để giải quyết tình trạng "được mùa mất giá, được giá mất mùa"; căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển ngành chăn nuôi lợn; trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc ngành chăn nuôi "vỡ trận", giải pháp căn cơ để khắc phục vấn đề này; vấn đề tiêu thụ nông sản qua các cửa khẩu (tạm nhập tái xuất); giải pháp đột phá thực sự để tái cơ cấu nông nghiệp; xử lý ô nhiễm đất nông nghiệp, thủy vực; phát triển nông nghiệp miền núi; phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển nông nghiệp hữu cơ...
Ưu thế nông nghiệp còn rất lớn
Trả lời các đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết: Về tiếp cận gói tín dụng 100.000 tỷ, thời gian qua, Chính phủ, Bộ NN&PTNT và NHNN đã vào cuộc tích cực, giải ngân được khoảng trên 30 nghìn tỷ cho các dự án, doanh nghiệp, khu vực... con số này sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn (về tài sản thế chấp), hiện lãnh đạo Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành (Tư pháp, TNMT,..) xây dựng giải pháp tháo gỡ để DN tiếp cận vốn thuận lợi.
Về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Bộ trưởng khẳng định không có cơ chế xin cho trong lĩnh vực này, nơi nào, địa phương nào đáp đáp ứng đủ điều kiện thì đều có thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Về tiêu thụ sản phẩm, đây là vấn đề chung, sức sản xuất tiềm năng hiện nay của chúng ta rất lớn, nhưng khâu chế biến và tổ chức thị trường còn yếu. Cần tổ chức lại từng ngành hàng, đây là vấn đề cần thời gian dài để đầu tư phát triển, cũng như chấn chỉnh những bất cập...
Về câu chuyện "giải cứu thịt lợn", Bộ trưởng cho biết, có 2 nguyên nhân chính: Thứ nhất, thời gian qua, sức sản xuất của chúng ta tăng trưởng quá nhanh (cả về thịt, sữa, cá, trứng) dẫn tới sức cung vượt quá nhu cầu; Thứ hai, tổ chức ngành hàng chưa tốt, khâu liên kết trong sản xuất, chế biến kém, dẫn tới tiêu thụ chủ yếu là thịt tươi, không còn phù hợp với thực tế hiện nay. Mặt khác về tổ chức thị trường, chúng ta mới chỉ xuất khẩu được một lượng nhỏ lợn sữa, lợn thịt chủ yếu xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc... Tóm lại chúng ta mới chỉ làm được 1 phân khúc, còn 2 phân khúc khác chúng ta rất kém, trong đó có trách nhiệm của ngành nông nghiệp. Bộ trưởng thẳng thắn nhận trách nhiệm của Bộ trong lĩnh vực này và đưa ra các giải pháp để khắc phục trong thời gian tới.
Đại biểu Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh) đặt câu hỏi chất vấn. Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Về phát triển giống chất lượng cao, Bộ trưởng cho biết: Thời gian qua nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu lớn, trong đó có thành tựu về giống. Tuy nhiên, giống cây ăn quả hiện nay còn kém, giống rau là yếu,... chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Xác định thế mạnh của Việt Nam trong thời gian tới là xuất khẩu rau quả, thủy sản,... theo đó, thời gian tới các giống bản địa của Việt Nam (cây, con, dược liệu), giống tôm, giống rau, quả... cần được tập trung trong thời gian tới.
Về phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực, trong thời gian tới Bộ sẽ tập trung đầu tư mạnh mẽ để phát triển 10 ngành hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD; đồng thời phối hợp với các bộ ngành, địa phương tiến hành rà soát, xây dựng kế hoạch khôi phục, phát triển các loại cây con đặc sản bản địa (Xoài Đồng Tháp, Vải Thanh Hà, Lợn Móng Cái...) phù hợp với đặc thù vùng miền để phục vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ),...
Khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,.. Bộ trưởng cho biết sẽ tập trung phát huy các lợi thế về lâm nghiệp, dược liệu, nông sản đặc sản để phát triển kinh tế nông nghiệp khu vực này.
Về sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, Bộ trưởng cho biết đây là một hướng sản xuất để phát triển trong thời gian tới. Hiện Bộ đang cùng với các ngành dự thảo một Nghị định về nông nghiệp hữu cơ, cố gắng trong thời gian ngắn nhất có được khung khổ pháp lý để định hướng, phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Tranh luận lại với Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, ĐBQH Nguyễn Thanh Hồng (Bình Dương) cho rằng, trả lời của Bộ trưởng về căn cứ lập quy hoạch phát triển đàn lợn chưa thuyết phục. Xuyên suốt câu trả lời vắng bóng vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Lập quy hoạch thời điểm đó phù hợp nhưng cơ chế thị trường thay đổi thì vai trò của Nhà nước trong bối cảnh đó như thế nào để có giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
“Lâu nay chúng ta có khẩu hiệu người tiêu dùng thông minh, Bộ trưởng nói nhà sản xuất phải thông minh nhưng người dân nói nhà quản lý phải thông minh”, ĐBQH Nguyễn Thanh Hồng nói.
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Tiếp đó, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh giải trình làm rõ thêm một số nội dung về tổ chức thị trường, cơ cấu lại các ngành hàng nông sản để phát huy lợi thế cạnh tranh xuất khẩu.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, khâu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp là phải căn cứ vào nhu cầu và tín hiệu của thị trường, kể cả trong và ngoài nước, để xây dựng các quy hoạch và tổ chức các quy hoạch đó cho tốt.
Theo Bộ trưởng, việc đàn lợn có tốc độ tăng trưởng nhanh cho thấy năng lực, tiềm năng của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có thể phát triển tốt nếu làm tốt công tác thị trường.
Liên quan đến công tác thị trường phải giải quyết được 2 vấn đề. Một là, mở cửa thị trường về mặt thương mại, tức là các vấn đề liên quan thuế suất, thuế nhập khẩu. Hai là, phải mở cửa về mặt thủ tục hành chính và các hàng rào kỹ thuật.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, chúng ta đã làm tốt khâu đầu, tức là mở cửa thị trường, nhiều thuế suất thậm chí về 0%. Chúng ta có dư địa để sản xuất rất nhiều sản phẩm, trong đó có thịt lợn. Nhưng còn hàng rào kỹ thuật là vấn đề cơ bản thì lại chưa bảo đảm theo quy chuẩn của các nước nhập khẩu, cụ thể như Trung Quốc.
“Từ năm 2016, hai Bộ đã liên tục phối hợp với nhau triển khai các hoạt động với phía Trung Quốc. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là để thông qua được hàng rào kỹ thuật với Trung Quốc thì việc đầu tiên phải được công nhận vùng chăn nuôi của Việt Nam không có dịch bệnh lở mồm long móng. Đây là yêu cầu tối thiểu cần có thông qua hàng rào kỹ thuật. Do đó, công tác quy hoạch phải tính toán lại và tổ chức sản xuất phải bảo đảm chất lượng, giá thành”, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết.
Các đại biểu Đặng Hoài Tân (Bình Định); Nguyễn Mạnh Cường (Quảng Bình); Ngô Thị Minh (Quảng Ninh); Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang); Võ Đình Tín (Đắc Nông).... đặt câu hỏi về: Giải pháp phát triển ngành tôm Việt Nam; nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp; giải pháp xử lý bất cập trong thực thi Nghị định 67 (tàu vừa đóng tại những cơ sở được Bộ NNPTNT giới thiệu đã hỏng, phải nằm bờ); trách nhiệm trong quản lý chất lượng sản xuất thức ăn, vật tư nông nghiệp (cấp khống giấy kiểm định); giải pháp căn cơ bảo vệ thương hiệu trong xuất khẩu thủy sản Việt; giải pháp khắc phục tình trạng bất cập trong quy hoạch nông sản; giải pháp, lộ trình phát triển công nghiệp chế biến; vấn đề đầu tư phát triển cảng cá, quy hoạch nuôi trồng thủy sản; giải pháp đột phá trong cơ cấu lại lâm nghiệp gắn với bảo vệ phát triển rừng...
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Trả lời câu hỏi của đại biểu về chiến lược phát triển ngành hàng tôm Việt, Bộ trưởng cho biết, đây là ngành hàng có lợi thế đặc biệt, nhu cầu thị trường thế giới mỗi năm tăng khoảng 10%. Chúng ta có lợi thế phát triển ngành này ở ĐBSCL, dải duyên hải 28 tỉnh,.. Để khai thác được lợi thế, chúng ta phải tạo sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và người dân trong vấn đề này. Bộ đã xây dựng được đề án cụ thể và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đồng thời phối hợp với các bộ, ngành liên quan để chủ động trong sản xuất tôm giống (tôm sú, tôm thẻ); phát triển khu công nghệ cao về con tôm; vừa nuôi tôm theo hướng sinh thái vừa nuôi thâm canh nước lợ...
Về khắc phục bất cập trong đóng tàu 67, Bộ chúng ta đã đóng được 666 tàu (vỏ sắt, gỗ, composit), trong đó 297 tàu sắt, hầu hết là công xuất lớn. Theo phản ánh của bà con, cơ bản các tàu đã phát huy tác dụng cả về hiệu quả và độ an toàn. Tuy nhiên, vừa qua xuất hiện một số tàu hư hỏng, nằm bờ (Bình Định, Phú Yên), trong đó Bình Định có tới 19 tàu hư hỏng,... Bộ đã yêu cầu 27 tỉnh thành rà soát lại toàn bộ, cử Tổng cục Thủy sản vào làm việc với tỉnh để khắc phục sự cố trên cơ sở minh bạch, trách nhiệm. Bộ cũng trực tiếp tổ chức 1 hội nghị với lãnh đạo 27 tỉnh thành, ngư dân, doanh nghiệp đóng tàu,.. qua đó thống nhất các giải pháp khắc phục sự cố.
Bộ cũng cho biết, tàu hư hỏng thuộc 2 công ty Đại Nguyên Dương, Nam Triệu, Bộ đã đình chỉ 2 DN này dừng đóng mới, tập trung khắc phục triệt để các sự cố (thay máy, vỏ thép đúng tiêu chuẩn...), bồi thường cho người dân;... thành lập đơn vị thẩm định độc lập để đánh giá khách quan sự cố, mời cơ quan công an vào cuộc... để có giải pháp triệt để.
Về bảo vệ thương hiệu nông sản bị một số cơ quan truyền thông nước ngoài đưa tin bôi nhọ, không đúng sự thật, Bộ đã làm việc với các ngành hàng để đưa ra các biện pháp đấu tranh phù hợp.
Về việc hàng xuất khẩu bị trả lại, Bộ cho biết tỷ lệ trả lại rất nhỏ, do yêu cầu của các đối tác rất cao, Bộ sẽ tăng cường các giải pháp kiểm soát, giám sát, để hạn chế tối đa thực phẩm không đủ chất lượng... Và đương nhiên hàng bị trả lại không được sử dụng làm thực phẩm.
Về bảo vệ mặt nước, Bộ khẳng định chúng ta không đánh đổi môi trường để phát triển sản xuất. Bộ đề nghị các tỉnh thành thực hiện nghiêm chủ trương này.
Về xây dựng các khu neo đậu, Bộ trưởng cho biết chúng ta gặp khó khăn về nguồn lực, Bộ đã đưa vào chương trình đầu tư trung hạn, đồng thời bàn với các tỉnh để tìm hướng tháo gỡ...
Đại biểu Ngô Thị Minh tranh luận với Bộ trưởng về quy hoạch nông sản, cho rằng công tác lập quy hoạch đang có vấn đề, chưa phát huy hết đặc thù, lợi thế của địa phương;... Đại biểu Phùng Đức Tiến (Hà Nam) tranh luận với đại biểu Nguyễn Chiến (Hà Nội) về phát huy vai trò của các nhà khoa học trong nước đối với phát triển nông nghiệp; đồng thời tranh luận với 2 Bộ trưởng Nông nghiệp, Công Thương về tổ chức thị trường....
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Các đại biểu Phan Thị Bình Thuận (TPHCM); Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình); Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang); Phạm Văn Tuân (Thái Bình); Nguyễn Sĩ Cương (Ninh Thuận); Huỳnh Thanh Cảnh (Bình Thuận); Nguyễn Thị Quyết Tâm (TPHCM)... chất vấn về giải pháp quản lý phân bón, ngăn chặn, xử lý tình trạng phân bón giả, kém chất lượng; giải pháp phát triển mô hình HTX công nông; trách nhiệm của Bộ trưởng và giải pháp đẩy mạnh liên kết 4 nhà; vai trò của Bộ trong liên kết tiêu thụ nông sản; phát triển thương hiệu nông sản Việt; giải pháp gỡ vướng về đất đai cho DN đầu tư vào nông nghiệp; xử lý cán bộ công chức vi phạm trong cấp giấy kiểm định phân bón; trách nhiệm quản lý nhà nước trong tổ chức thị trường; giải pháp chung để ngăn chặn xử lý tàu giã cào; giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp gắn với nâng cao cuộc sống của người nông dân;...
Về quản lý phân bón, Bộ đang phối hợp với Bộ Công Thương đề sửa đổi lại các quy định hiện hành để chuyển toàn bộ chức năng quản lý phân bón về Bộ Nông nghiệp; đồng thời đẩy nhanh việc sửa đổi Nghị định về quản lý phân bón; xây dựng Nghị định xử lý vi phạm trong sản xuất, kinh doanh phân bón; đồng thời quản lý phân bón, thuốc theo hướng ưu tiên phát triển nông sản hữu cơ..
Về mô hình HTX công nông, Luật HTX đã có cơ chế khuyến khích. Về liên kết 4 nhà, chúng ta đang triển khai, có nơi làm tốt (VD, nhãn lồng Hưng Yên, hay phát triển ngành hàng tôm, cá tra...), tuy nhiên về tổng thể còn chưa tốt, bộ sẽ triển khai rà soát và có giải pháp tháo gỡ trong thời gian tới.
Về giải pháp thu hút, giữ chân các nhà DN đầu tư vào nông nghiệp, Bộ trưởng cho biết, chính sách thu hút của chúng ta chưa hấp dẫn, Bộ đang phối hợp với các cơ quan liên quan để rà soát, đề xuất cấp thẩm quyền sửa đổi, tháo gỡ các quy định hiện hành cả về đất đai, cơ chế ưu đãi...
Về xây dựng thương hiệu nông sản Việt, Bộ cho biết đang tập trung xây dựng các chùm sản phẩm, thực phẩm Việt ở tầm quốc gia, giá trị lớn...
Về xử lý tổ chức, cá nhân sai phạm trong quản lý phân bón, Bộ đã thu hồi hoạt động cấp giấy phép của các đơn vị vi phạm; kỷ luật các cán bộ sai phạm... Thống nhất 1 đầu mối quản lý là Cục Bảo vệ thực vật.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm tranh luận với Bộ trưởng về trách nhiệm của Bộ trưởng trong tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản để người nông dân sống được. Đại biểu cho rằng chúng ta ứng xử với nông nghiệp, nông thôn, nông dân còn lúng túng, chưa có giải pháp đột phá, cái dễ thì làm, cái khó thì tránh...
Đại biểu Đặng Hoài Tâm (Bình Định) tranh luận về trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc giới thiệu DN đóng tàu kém chất lượng, Tổng cục Thủy sản kiểm định. Đại biểu Nguyễn Sĩ Cương tranh luận về việc chuẩn hóa các loại phân bón cơ bản, hiện Việt Nam có hơn 7000 loại phân bón, trong khi đó Thái Lan chỉ có hơn 100 loại phân bón cơ bản, đại biểu yêu cầu Bộ trưởng làm rõ lộ trình chuẩn hóa phân bón cơ bản,...
Tiếp đó, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trả lời các đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp); Võ Thị Như Hoa (Đà Nẵng);... về vấn đề phải thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường; nâng cao hiệu quả quản lý nông lâm trường; phát triển kinh tế nông nghiệp khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa (nâng mức hỗ trợ trồng, bảo vệ rừng; phối hợp với Bộ Y tế phát triển cây dược liệu, cây con đặc sản...); chính sách đột phá để kêu gọi đầu tư, khuyến khích phát triển hệ thống nhà máy chế biến nông sản; khắc phục hậu quả tàu 67; cơ cấu lại các loại phân bón cơ bản;...
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng trả lời chất vấn. Ảnh VGP/Nhật Bắc |
9 giải pháp tổng thể nâng cao năng lực cạnh tranh
Cuối giờ sáng, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giải trình một số nội dung về nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản.
Chỉ ra những điểm hạn chế của ngành nông nghiệp hiện nay, Phó Thủ tướng cho rằng, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa phù hợp với năng lực sản xuất và chưa gắn với nhu cầu của thị trường, vượt xa chỉ tiêu thực phẩm đặt ra. Dự báo trong quy hoạch thiếu chính xác, cao hơn nhu cầu thị trường như ngành chăn nuôi mà ĐBQB Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh) đã đề cập. Công tác điều chỉnh quy hoạch chậm, việc thực hiện quy hoạch còn nhiều hạn chế, đầu tư theo phong trào rất phổ biến. Đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và công nghiệp dịch vụ nông thôn chưa đạt yêu cầu do vốn đầu tư khó khăn. Diện tích canh tác theo đầu người thấp, quy mô sản xuất mạnh mún khó áp dụng khoa học công nghệ, thị trường bấp bênh, thiếu ổn định.
“Do đó rất cần giải pháp tổng thể để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Trước hết, phải hình thành hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nông dân tiếp cận bình đẳng, minh bạch các nguồn lực đất đai, nguồn vốn, KH - CN... để sản xuất hàng hóa. Đây là nhóm giải pháp quan trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp.
Thứ hai, tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo động lực hình thành các vùng chuyên canh lớn. Ví dụ như sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tập trung hóa sản xuất đòi hỏi phải tích tụ đất đai, nhưng gặp điểm nghẽn là hạn điền, nên cần sửa đổi pháp luật liên quan đến đất đai.
Thứ ba, rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các các vùng, ngành, thậm chí của sản phẩm, nhằm phát huy lợi thế của địa phương, của vùng. Chúng ta có quy hoạch rồi nhưng phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh, gắn quy hoạch với nhu cầu của thị trường, với thích ứng biến đổi khí hậu. Phải phân định rõ các nguồn vốn cho hạ tầng, nguồn vốn Nhà nước đầu tư cho hạ tầng chính, nguồn vốn của doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chế biến phục vụ nông nghiệp, nguồn vốn của người dân tham gia vào sản xuất.
Thứ tư, tổ chức lại sản xuất, phát triển các hình thức sản xuất phù hợp, theo hướng hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị. Ở đây phải giảm các khâu trung gian để giảm giá thành, và nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả, nhất là mô hình nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ năm, mở rộng và đẩy mạnh liên kết giữa nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà băng. Trong đó, lấy doanh nghiệp, hợp tác xã và chủ trang trại là trung tâm là động lực cho quá trình phát triển. Nông dân đóng vai trò là người sản xuất và được hưởng lợi ích phân phối từ lao động và đóng góp của mình, có chính sách hỗ trợ nông dân khó khăn.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, ngành nghề tiểu công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, để giải quyết việc làm, giảm lao động trong nông nghiệp, tạo điều kiện hiện đại hóa nông thôn.
Thứ bảy, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học.
Thứ tám, tổ chức lại thương mại, sản xuất nông sản trong nước.
Thứ chín, phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo và trang bị kiến thức, để nông dân có đủ kiến thức nắm bắt thị trường, tạo ra sản phẩm năng suất, chất lượng, hiệu quả và thương hiệu trên thị trường
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Đầu giờ chiều đến 15.00', Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tiếp tục trả lời chất vấn của các đại biểu Trịnh Ngọc Phương (Tây Ninh); Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị); Nguyễn Anh Trí (Hà Nội); Đỗ Thị Lan (Quảng Ninh); Đặng Thuần Phong (Bến Tre); Tăng Thị Ngọc Mai (Trà Vinh); Trần Văn Mão (Nghệ An); Lưu Bình Nhưỡng (Bến Tre); Nguyễn Thanh Hồng (Bình Dương); Nguyễn Tạo (Lâm Đồng); Lê Thanh Vân (Cà Mau); Nguyễn Lân Hiếu (An Giang); Nguyễn Quốc Bình (Hà Nội); Trương Minh Hoàng (Cà Mau)... về các vấn đề: Cơ cấu lại ngành mía đường, phát triển sản phẩm sau đường; xây dựng khung pháp lý về phát triển nông nghiệp công nghệ cao; giải pháp đẩy nhanh tích tụ ruộng đất gắn với bảo đảm lợi ích cho người nông dân; giải pháp đảm bảo nguồn thức ăn chăn nuôi, không bị phụ thuộc vào nhập khẩu; giải pháp đột phá để nâng cao mức sống người nông dân khu vực miền núi, dân tộc thiểu số; giải pháp xử lý sạt lở ĐBSCL; quản lý phân bón theo hướng hữu cơ, thân thiện với môi trường; vấn đề bán điện cho người nông dân (chất vấn Bộ trưởng Công Thương); giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản; giải pháp tái cơ cấu ứng phó với biến đổi khí hậu; giải pháp để người dân "mặn mà" với bảo hiểm nông nghiệp; kế hoạch phát triển cánh đồng lớn, nông nghiệp công nghệ cao; giải pháp công khai minh bạch trong quản lý phân bón; giải pháp phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản...
Kết luận phiên chất vấn của Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, Chủ tịch Quốc hội cho biết đây là lĩnh vực đặc biệt quan trọng đối với đất nước, được Quốc hội nhiều lần quan tâm chất vấn, ban hành nghị quyết giám sát với mong muốn có giải pháp đột phá đối với lĩnh vực này.
Tại phiên chất vấn có 43 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn, 13 đại biểu tranh luận, 22 đại biểu đã đăng ký nhưng do quỹ thời gian hạn chế nên chưa được đặt câu hỏi, đề nghị đại biểu gửi câu hỏi chất vấn để Bộ trưởng trả lời bằng văn bản.
Đây là lần đầu tiên Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trả lời chất vấn, dù mới nhận nhiệm vụ hơn 11 tháng nhưng Bộ trưởng đã nắm chắc tình hình, thực trạng vấn đề, trả lời thẳng thắn, ngắn gọn, nhận trách nhiệm về những tồn tại, hạn chế và đưa ra giải pháp khắc phục.
Không khí chung, đa số các đại biểu hài lòng với phần trả lời của Bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội đánh giá.
Nêu một loạt những tồn tại, hạn chế trong nông nghiệp cả về tổ chức sản xuất, chế biến, thị trường, nâng cao mức sống người nông dân,... Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng NN&PTNT, các thành viên Chính phủ tiếp tục có giải pháp căn cơ, toàn diện để cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất về tính tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp đến các cấp, ngành, địa phương và người dân và về xây dựng nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Lãnh đạo các cấp, ngành, địa phương trong tổ chức thực hiện chủ trương này.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện các mục tiêu tại Nghị quyết 26/NQ-TW của Trung ương 7, Khóa X và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ ba, rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu
Tiếp tục rà soát quy hoạch, chiến lược, kế hoạch sản xuất từng lĩnh vực và lợi thế của từng địa phương, tính đến nhu cầu thị trường (trong nước và thế giới) và ứng phó với BĐKH; cơ cấu lại sản phẩm theo 3 nhóm: (1) Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia (những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên và thịt lợn, gia cầm), tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến; (2) Nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh, các địa phương căn cứ lợi thế và điều kiện cụ thể, lựa chọn nhóm sản phẩm này để quy hoạch và đầu tư theo hướng như đối với sản phẩm quốc gia nhưng quy mô cấp địa phương; có chiến lược và giải pháp để mở rộng quy mô, sức cạnh tranh, từng bước bổ sung vào nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia; (3) Nhóm sản phẩm vùng/miền là đặc sản của các địa phương, có chỉ dẫn địa lý cụ thể, nhưng có quy mô nhỏ, sẽ được xây dựng và phát triển gắn với xây dựng nông thôn mới ở xã theo mô hình “Mỗi làng, xã một sản phẩm”.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, cạnh tranh quốc tế; thực hiện chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn.
Thứ năm, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ giải quyết các vấn đề căn cốt trong chuỗi sản xuất, nhất là công nghệ giống, quy trình và các khâu chế biến, phân phối với cả 3 nhóm sản phẩm quốc gia, cấp tỉnh, sản phẩm địa phương; phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nông dân, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của ngành.
Thứ sáu, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển thị trường
Bộ sẽ thành lập cơ quan quản lý tập trung, thúc đẩy chuỗi chế biến nông sản gắn với mở rộng thị trường; kết hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, các địa phương, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và tổ chức của nông dân để khai thác, mở rộng thị trường xuất khẩu, kể cả thị trường truyền thống và nhóm thị trường mới; tăng cường năng lực hội nhập quốc tế; nghiên cứu đánh giá các tác động của hội nhập quốc tế đem lại; tăng cường năng lực dự báo và thông tin thị trường trong nước và quốc tế; đẩy mạnh xúc tiến thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.
Phát triển mạnh thị trường trong nước, điều hành cân đối cung cầu các mặt hàng thực phẩm thiết yếu, nhạy cảm; phát triển hệ thống bán lẻ, xây dựng hình ảnh nông sản chất lượng cao, an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng; đẩy nhanh hoàn thành xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.
Thứ bảy, tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế; tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ bản nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã, bao gồm cả các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH và rút dần khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Thứ tám, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Theo Bộ NNPTNT, để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế, cần triển khai đồng bộ cả 8 giải pháp trên, trong đó trọng tâm là phải (1) hoàn thiện cơ chế chính sách, (2) tăng cường nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng KHCN và (3) đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất (đổi mới mô hình tăng trưởng) để tạo “đột phá” trong cơ cấu lại nông nghiệp.
Nói trên báo Đại biểu Nhân dân, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, “các nhóm vấn đề được Quốc hội tiến hành chất vấn tại Kỳ họp này đã được lựa chọn, chắt lọc qua nhiều vòng. UBTVQH đã nhận được 145 vấn đề chất vấn được tổng hợp từ 42 Đoàn ĐBQH. Cùng với đó là 3.288 ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước được Trung ương MTTQ tổng hợp gửi đến Kỳ họp thứ 3. Tuy nhiên, khuôn khổ thời gian của QH có hạn, không thể ôm được hết. Vì thế, chúng tôi đã đưa ra một số nguyên tắc và chọn lựa nội dung chất vấn rất chặt chẽ”.
Theo đó, ưu tiên cho các vấn đề bức xúc, nổi lên gần đây được dư luận cử tri và ĐBQH quan tâm, đặc biệt là những vấn đề mà trong thời gian 12 tháng qua chưa được ĐBQH chất vấn và bộ trưởng, thành viên Chính phủ chưa trả lời chất vấn. Nội dung chất vấn cũng phải bảo đảm hài hòa giữa lĩnh vực kinh tế và xã hội. Sau đó, Thường trực Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban tiếp tục làm việc, lọc ra các nhóm vấn đề sẽ chất vấn để trình UBTVQH sàng lọc thêm một lần nữa rồi mới trình ra Quốc hội. Từ các nhóm vấn đề này thì xác định rất rõ Bộ trưởng nào có trách nhiệm trả lời chất vấn chính, Bộ trưởng, thành viên Chính phủ nào phải tham gia trả lời.
Vì thế, có thể nói rằng, các nhóm vấn đề được lựa chọn chất vấn lần này đều rất thiết thực, bám sát thực tiễn cuộc sống, phản ánh được những mối quan tâm, bức xúc của cử tri và nhân dân thời gian gần đây.
Tranh luận sâu sắc, giải pháp đúng tầm
Về những điểm mới của phiên chất vấn lần này, Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, một điểm mới quan trọng của phiên chất vấn lần này là tăng thêm thời gian chất vấn trong khi số lượng bộ trưởng trả lời chất vấn không đổi, số lượng các thành viên Chính phủ tham gia giải trình sẽ nhiều hơn.
Quyền giơ biển tranh luận của ĐBQH cũng sẽ được thực hiện để đại biểu nào chưa hài lòng với câu trả lời có thể chất vấn lại hoặc tranh luận thêm.
Điều này sẽ giúp các ĐBQH chất vấn sâu sắc hơn, đi đến cùng vấn đề hơn, còn Bộ trưởng, các thành viên Chính phủ có thể giải trình cặn kẽ hơn về những việc đã làm, đang làm hoặc chưa làm được, cũng như định hướng sắp tới như thế nào.
Một điểm nhấn nữa là, với mỗi nhóm vấn đề, lần này, Quốc hội đã yêu cầu 1 Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực phải trực tiếp giải trình, làm rõ những nội dung vượt quá thẩm quyền quản lý của một bộ, thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ.
Các kỳ họp trước, các Phó Thủ tướng cũng đã tham gia trả lời chất vấn nhưng lần này Quốc hội yêu cầu rõ ràng hơn, ai phụ trách lĩnh vực nào phải có trách nhiệm trả lời về lĩnh vực đó. Phân định rõ trách nhiệm như vậy là để có giải pháp đúng tầm hơn.
Sau đó, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình sẽ thay mặt Chính phủ phát biểu làm rõ thêm và trực tiếp trả lời chất vấn của ĐBQH về những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chính phủ.
Việc tạo thêm thời gian, cơ hội cho các thành viên Chính phủ khác trả lời chính là để có cái nhìn khách quan hơn, đa chiều hơn, về những vấn đề đang xảy ra, từ đó mà điềm tĩnh hơn, căn cơ hơn trong việc tìm giải pháp tháo gỡ.
Theo Tổng Thư ký Quốc hội: “Thời gian qua, cử tri và nhân dân cũng đã nhìn thấy sự xông xáo, quyết liệt giải quyết các tồn tại, hạn chế của bộ, ngành mình của Chính phủ, các thành viên Chính phủ. Vì thế, tôi hy vọng phiên chất vấn sẽ đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của cử tri, các thành viên Chính phủ sẽ trả lời thỏa đáng những câu hỏi của ĐBQH, nhận thức rõ trách nhiệm của mình để giải quyết các vấn đề này, tạo chuyển biến thực sự trong đời sống xã hội”.
Cả bộ máy phải hành động
Liên quan đến việc tháo gỡ được những tồn tại, hạn chế trong nông nghiệp, văn hóa, du lịch, đầu tư, y tế hiện nay (các chủ đề được lựa chọn để chất vấn), Tổng Thư ký Quốc hội cho rằng: Giải pháp thì có. Chính phủ, các bộ, ngành cũng đang nỗ lực thực hiện. Nhưng giải pháp có đi nhanh vào đời sống được hay không, theo ông, mỗi bộ trưởng, trưởng ngành phải đôn đốc, thôi thúc cán bộ, công chức của ngành mình chuyển động nhanh hơn nữa.
“Chúng ta cứ nói xây dựng bộ máy liêm chính, kiến tạo, phục vụ mà ở những tầng nấc trực tiếp tiếp xúc với người dân, doanh nghiệp lại chậm chạp, ì ạch, không thực sự kiến tạo, phục vụ thì rất dễ làm mất lòng tin.
Bộ máy phải bắt tay vào hành động. Từng cán bộ công vụ phải bắt tay vào hành động thì những cam kết, lời hứa của các thành viên Chính phủ mới có thể tạo chuyển biến trong đời sống được” – Tổng Thư ký Quốc hội bày tỏ.
Theo chương trình kỳ họp, đầu giờ sáng thứ Ba, ngày 13/6, sau khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu khai mạc phiên chất vấn, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội Nguyễn Thanh Hải trình bày Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV (Toàn văn báo cáo của Ban Dân nguyện).
Tiếp đó, trong phần làm việc còn lại của buổi sáng đến 15.00’ chiều, Chủ tịch Quốc hội chủ trì điều hành chất vấn nhóm vấn đề thứ nhất đối với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường (Toàn văn Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ NN&PTNT).
Nội dung chất vấn gồm: Giải pháp đột phá và lộ trình thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong thời gian tới; Biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển nông nghiệp bền vững; Công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, quản lý các hoạt động khai thác thủy sản.
Trong quá trình Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trả lời chất vấn, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng, thay mặt Thủ tướng Chính phủ trả lời những chất vấn thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ, Các Bộ trưởng, Trưởng ngành cùng tham gia trả lời chất vấn: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ. Bên cạnh đó, các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác trả lời về những nội dung liên quan thuộc trách nhiệm của mình (nếu có).
* Sau khi phát biểu kết thúc nhóm vấn đề chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ 15.05’, Chủ tịch Quốc hội chủ trì tiếp tục điều hành chất vấn nhóm vấn đề thứ 2 đối với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện (Toàn văn Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ VHTT&DL).
Nội dung chất vấn gồm: Vấn đề quản lý, cấp phép các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; khai thác, sử dụng các công trình văn hóa, thể thao; tổ chức lễ hội; Giải pháp ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử; xây dựng nếp sống văn hóa và bảo tồn, phát triển văn hóa xã hội; Công tác quản lý và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ngành du lịch.
Trong quá trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trả lời chất vấn, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, thay mặt Thủ tướng Chính phủ trả lời những chất vấn thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ; các Bộ trưởng, Trưởng ngành cùng tham gia trả lời chất vấn gồm: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công an, Giáo dục và Đào tạo. Các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác trả lời về những nội dung liên quan thuộc trách nhiệm của mình (nếu có).
* Từ 10.00’, ngày 14/6, sau khi kết thúc nhóm vấn đề chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch Quốc hội chủ trì điều hành chất vấn nhóm vấn đề thứ 3 đối với Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến (Toàn văn báo cáo trả lời chất vấn của Bộ Y tế).
Nội dung chất vấn gồm: Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả khám bệnh, chữa bệnh; Vấn đề giá thuốc và quản lý nhà nước về giá thuốc, cung ứng thuốc tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Việc đầu tư cho y tế cơ sở để giảm tải cho bệnh viện tuyến trên; Thực trạng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, đặc biệt tại các địa bàn miền núi, các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, thay mặt Thủ tướng Chính phủ trả lời những chất vấn thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ. Các Bộ trưởng, Trưởng ngành cùng tham gia trả lời chất vấn gồm: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Nội vụ, Ủy ban Dân tộc. Các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác trả lời về những nội dung liên quan thuộc trách nhiệm của mình (nếu có).
* Từ 16.25’ Chủ tịch Quốc hội phát biểu kết thúc nhóm vấn đề chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Y tế, sau đó, Chủ tịch Quốc hội chủ trì điều hành chất vấn nhóm vấn đề thứ 4 đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng (Toàn văn báo cáo của Bộ KHĐT).
Nội dung chất vấn gồm: Giải pháp cụ thể để huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển; Việc phân bổ, thông báo kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; tăng cường quản lý, kiểm soát, tránh lãng phí trong đầu tư công; Trách nhiệm của bộ, ngành trong việc thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia.
Trong nhóm vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, thay mặt Thủ tướng Chính phủ trả lời những chất vấn thuộc trách nhiệm chung của Chính phủ. Các Bộ trưởng, Trưởng ngành cùng tham gia trả lời chất vấn: Tài chính, Xây dựng, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ. Các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác trả lời về những nội dung liên quan thuộc trách nhiệm của mình (nếu có).
Từ 8.00’ đến 11.20’, ngày 15/6, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các thành viên Chính phủ tiếp tục trả lời chất vấn về nhóm vấn đề chất vấn thứ 4. Cuối giờ làm việc buổi sáng, Chủ tịch Quốc hội phát biểu kết thúc nhóm vấn đề chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Buổi chiều, từ 14.00’ đến 16.05’ Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình phát biểu làm rõ thêm và trực tiếp trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về những vấn đề liên quan thuộc trách nhiệm của Chính phủ trong các phiên chất vấn từ ngày 13 -15/6.
Từ 16.45’ đến 17.00’ Chủ tịch Quốc hội phát biểu bế mạc phiên chất vấn và trả lời chất vấn.