Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng trả lời chất vấn. Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Sở hữu chéo ngân hàng thương mại sẽ được xử lý triệt để
Về xử lý tình trạng sở hữu chéo, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo và giám sát các tổ chức tín dụng, đẩy nhanh tiến độ xử lý các vi phạm, giới hạn sở hữu cổ phần, sở hữu chéo thông qua yêu cầu chuyển nhượng, sáp nhập, thoái vốn các tổ chức tín dụng.
Đến nay, tình trạng sở hữu cổ phần chéo giải quyết cơ bản của ngân hàng minh bạch hơn. Tình trạng nhóm cổ đông lớn thao túng chi phối ngân hàng đã được nhận diện và xử lý kiểm soát một bước quan trọng. Nhóm chi phối ngân hàng đã giảm mạnh. Cho đến nay không còn cá nhân sở hữu trên 50% cổ phần tại ngân hàng thương mại cổ phần. Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp từ 56 cặp năm 2012 hiện nay chỉ còn 2 cặp…
Tuy nhiên, thực tiễn vừa qua cho thấy, sở hữu chéo là một vấn đề phức tạp, khó phát hiện và kiểm soát đối với trường hợp cố tình nhờ người đứng tên hộ. Thực tế này đòi hỏi phải thanh tra, kiểm tra, giám sát thì cơ quan chức năng mới phát hiện được vi phạm. Việc xử lý sở hữu chéo cũng đã được xử lý một bước nhưng vẫn còn tồn tại.
Nguyên nhân là do: Việc thoái vốn của các cổ đông thời gian qua còn khó khăn bởi chưa tìm được đối tác mua lại phần vốn đó. Việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành quy mô lớn có thể gây tổn thất cho các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp nhà nước. Việc thoái vốn có liên quan đến điều kiện thị trường của hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp và nhà đầu tư cũng có khó khăn nên cản trở tiến độ thoái vốn.
Để khắc phục tình trạng sở hữu chéo, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi đang trình Quốc hội đã có quy định để tạo cơ sở xác định cổ đông đích thực và cổ đông hưởng lợi cuối cùng và tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát các cổ đông.
Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tập trung rà soát, sửa đổi tiêu chuẩn, điều kiện đối với chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng thành viên… theo hướng chặt chẽ hơn; sửa đổi giới hạn sở hữu cổ phần, cổ đông tại các tổ chức tín dụng cổ phần; hạn chế sự thao túng của các tổ chức tín dụng có các cổ đông chi phối, bổ sung quy định về góp vốn và mua cổ phần các tổ chức tín dụng. Nếu dự thảo luật này được Quốc hội thông qua thì việc sở hữu chéo sẽ được xử lý một cách triệt để.
Đang kiểm điểm trách nhiệm tổ chức, cá nhân ở cơ quan thanh tra giám sát
Chất vấn tại Quốc hội, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TPHCM) cho biết, sáng nay, ông nhận được ý kiến của nhiều cử tri về thông báo của Thanh tra Chính phủ số 2214 ngày 31/8/2017 về thanh tra công tác kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Theo thông báo này, “không xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng có vi phạm và chưa kịp thời có biện pháp xử lý, chấn chỉnh hữu hiệu đối với một số tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả”.
Thông báo này cũng nói rằng, Ngân hàng Nhà nước chậm ban hành quyết định đưa tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tổ chức tín dụng lâm vào một trong các trường hợp theo quy định tại Khoản 3 Điều 146 Luật Các tổ chức tín dụng 2010.
Trong thông báo này, Thanh tra Chính phủ cũng đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho kiểm tra và xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Đại biểu hỏi, từ tháng 8 đến nay, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã xử lý việc này như thế nào?
Trả lời vấn đề này, Thống đốc Lê Minh Hưng nêu rõ, Thanh tra Chính phủ đã có kết luận và Thủ tướng Chính phủ cũng đã có văn bản chỉ đạo.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang tiến hành thực hiện công tác kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các đơn vị, tổ chức có liên quan thuộc Ngân hàng Nhà nước ở cơ quan thanh tra giám sát theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình.
“Trên cơ sở kết quả báo cáo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan của cơ quan thanh tra, giám sát, chúng tôi sẽ báo cáo Chính phủ hướng xử lý trong thời gian tới, khi có kết quả chúng tôi sẽ báo cáo với đại biểu về kết quả xử lý”, Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.
Không đề nghị miễn trừ trách nhiệm cho cán bộ vi phạm
Liên quan đến dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đang được trình Quốc hội xem xét, thông qua, ngành ngân hàng đề nghị có điều khoản miễn trừ trách nhiệm cho cán bộ ngân hàng tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém. Thực tế, nhiều ngành khác cũng rủi ro, nhưng không có ngành nào có điều khoản miễn trừ trách nhiệm như ngành ngân hàng.
Nhấn mạnh điều này, đại biểu chất vấn Thống đốc nếu Quốc hội thông qua Luật Tổ chức tín dụng (sửa đổi) mà không có điều khoản miễn trừ trách nhiệm này thì ngành ngân hàng có làm tròn được nhiệm vụ của mình không?
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định, ngành ngân hàng không đề nghị miễn trừ trách nhiệm cho cán bộ có hành vi vi phạm pháp luật.
Nếu cán bộ nào tham gia tái cơ cấu có hành vi vi phạm pháp luật thì vẫn phải xử lý theo các quy định của pháp luật.
Ngành ngân hàng mong muốn có quy định về miễn trừ trách nhiệm trong dự thảo Luật là nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ có năng lực, trình độ yên tâm tham gia vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
“Chúng ta phải tăng cường các cán bộ từ các tổ chức tín dụng nhà nước, ngân hàng thương mại Nhà nước sang để hỗ trợ quá trình này. Muốn có được những cán bộ có trình độ, năng lực thì chúng ta cũng nên có những quy định chuyên ngành như thông lệ các nước”, Thống đốc Lê Minh Hưng đề nghị.
Xử lý triệt để hạn chế, yếu kém của các tổ chức tín dụng
Về việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, Thống đốc Lê Minh Hưng nêu rõ, trong quá trình tổng kết việc thực hiện tái cơ cấu tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu cho thấy, bên cạnh những kết quả tích cực, thì còn một số hạn chế.
NHNN đã đánh giá nguyên nhân khách quan, chủ quan và giải pháp khắc phục của những hạn chế. Trên cơ sở này, NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu.
Trong thời gian qua, nền kinh tế tuy đã phục hồi nhưng còn khó khăn. Trong khi đó, hoạt động tổ chức tín dụng gắn liền với diễn biến của nền kinh tế. Nền kinh tế có khó khăn thì hoạt động của tổ chức tín dụng cũng khó khăn. Tổ chức tín dụng vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế, đầu tư phát triển, đồng thời tích cực thực hiện nỗ lực tái cơ cấu, xử lý hạn chế. Đây là những nguyên nhân cơ bản khiến quá trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu đạt kết quả chưa như mong muốn.
Cũng theo Thống đốc, một số cơ chế, chính sách hỗ trợ cho quá trình này còn bất cập. Do đó, NHNN đã báo cáo Chính phủ trình Quốc hội Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu tại Kỳ họp thứ 3 và tại Kỳ họp thứ 4 trình dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Đây là giải pháp quan trọng, cơ bản, có tính lâu dài để xử lý triệt để tồn tại, hạn chế, yếu kém trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, thị trường vốn nước ta có đặc thù là phát triển chưa có bước tiến mạnh, dù đầu năm nay đã phát triển khá hơn. Do đặc thù này nên nguồn vốn của nền kinh tế phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Thị trường vốn chưa phát triển mạnh khiến quá trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng có một số khó khăn.
Một nguyên nhân nữa là năng lực điều hành, quản trị của một số tổ chức tín dụng còn hạn chế cũng khiến quá trình tái cơ cấu chưa đạt yêu cầu, Thống đốc Lê Minh Hưng nói.
Xử lý các ngân hàng mua lại với giá 0 đồng
Trả lời chất vấn của đại biểu về việc xử lý các ngân hàng được mua với giá 0 đồng, Thống đốc nhấn mạnh: Sau khi chúng ta mua lại điều quan trọng nhất là chúng ta đã ổn định được tâm lý của người gửi tiền, tránh việc rút tiền hàng loạt và giữ được ổn định của các ngân hàng để không gây nguy cơ đổ vỡ của ngân hàng này, từ đó lây lan sang mất an toàn hệ thống.
Về việc xây dựng phương án để xử lý triệt để các ngân hàng này, sau khi Ngân hàng nhà nước mua lại 0 đồng chúng tôi đã có những bước để kiện toàn hoạt động, đưa cán bộ của các ngân hàng thương mại nhà nước như từ Vietcombank và từ Ngân hàng Công Thương sang để quản trị điều hành các ngân hàng này, kiện toàn lại bộ máy quản trị điều hành cán bộ, tăng cường các hoạt động để đảm bảo an toàn.
Đồng thời, đẩy mạnh việc tiết giảm các chi phí hoạt động để giảm lỗ và tăng cường công tác thu hồi nợ xấu và xử lý các tài sản đảm bảo. Cơ bản bước đầu các hoạt động của ngân hàng này đã tạm ổn định và lỗ lũy kế cũng đã giảm dần.
Tuy nhiên, thực tế là các ngân hàng này còn khó khăn do thực trạng tài chính, tài sản không sinh lời cao,... Chính vì vậy chúng tôi chỉ đạo quyết liệt, xây dựng đề án để xử lý các ngân hàng này,..
Thống đốc cho biết, thực tế rất khó khăn là chúng ta chưa có một khuôn khổ pháp lý đầy đủ để xử lý các ngân hàng yếu kém tương tự như các ngân hàng chúng ta đã mua vì trước đây chúng ta chưa có tiền lệ nào trong việc xử lý các ngân hàng này.
Thống đốc nhấn mạnh: Chúng ta xử lý các ngân hàng vừa phải đảm bảo an toàn lành mạnh nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định hoạt động ngân hàng, giữ được lòng tin của người gửi tiền và bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền. Tuy nhiên, hiện chúng ta chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ. Chính vì vậy Chính phủ đã chỉ đạo và Ngân hàng nhà nước đã tập trung nỗ lực công sức để xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tín dụng. Các quy định trong luật này có một nội dung rất quan trọng là để có các công cụ để xử lý và hỗ trợ chương trình tái cơ cấu.
Mục tiêu ưu tiên của Chính phủ là tìm các nhà đầu tư mới có năng lực tài chính và năng lực quản trị kinh doanh, kể cả nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay chúng tôi đang tiếp tục đàm phán với các nhà đầu tư để mời, có ngân hàng thì đã có nhà đầu tư vào để thống nhất phương án, có ngân hàng đang đàm phán tiếp tục, có ngân hàng chúng tôi đang tiếp tục tìm các nhà đầu tư. Khi các nhà đầu tư vào, nếu có khuôn khổ pháp lý đầy đủ thì chúng ta có các công cụ để xử lý các ngân hàng này một cách triệt để và nhanh chóng hơn.
Có thể giảm được lãi suất cho vay trong thời gian tới
Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về giải pháp phấn đấu giảm lãi suất cho vay, Thống đốc khẳng định, mục tiêu, nghị quyết của Quốc hội đã đặt ra và chỉ đạo của Chính phủ là trong điều hành chính sách tiền tệ nói chung cũng như lãi suất nói riêng thì hệ thống ngân hàng luôn luôn phải có giải pháp để giảm các chi phí cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế, đấy là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu.
Tuy nhiên, nói cụ thể về vấn đề lãi suất, thì lãi suất ở Việt Nam cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, quan hệ cung cầu vốn ở trên thị trường và tình hình diễn biến kinh tế vĩ mô và các yếu tố khác có liên quan như chính sách điều hành tỷ giá, tình hình an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Quan điểm xuyên suốt của Chính phủ và của Ngân hàng nhà nước là kiên định mục tiêu ổn định vĩ mô và kiểm soát được lạm phát, giữ được lạm phát ở mức thấp. Đây là cơ sở quan trọng nhất để có thể giảm được lãi suất cho vay.
Ngoài ra trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thì chúng tôi phối hợp để thực hiệc việc điều tiết các công cụ chính sách trên thị trường để đảm bảo được thanh khoản của thị trường ngân hàng, để giữ ổn định thanh khoản, qua đó giữ ổn định được lãi suất và góp phần giảm được lãi suất cho vay.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng trong các hoạt động kinh doanh của mình thì phải tập trung vào việc tiết giảm chi phí để qua đó giảm được chi phí cho vay trong nền kinh tế và đồng thời với việc đó thì các tổ chức tín dụng phải đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.
Trên cơ sở đạt được kết quả tốt về xử lý nợ xấu thì góp phần giảm bớt những tài sản không sinh lời trong hệ thống các tổ chức tín dụng, qua đó cũng trực tiếp góp phần giảm lãi suất cho vay.
Việc quan trọng nhất nữa cũng phụ thuộc vào điều kiện cung ứng vốn ở trên thị trường. Đặc điểm của thị trường tài chính là hệ thống ngân hàng Việt Nam phải cung ứng số lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế, trong đó nhu cầu vốn đầu tư trung, dài hạn từ hệ thống ngân hàng cũng rất lớn, trong khi nguồn vốn huy động của chúng ta lại chủ yếu vốn ngắn hạn và vốn dưới 12 tháng.
Cho nên việc này cũng là một vấn đề trong điều hành vĩ mô phải hết sức lưu ý chênh lệch kỳ hạn để tránh rủi ro trong hoạt động ngân hàng, nhưng mục tiêu giảm lãi suất luôn luôn là một trong những mục tiêu chúng tôi hướng đến trong tương lai.
Chúng tôi cho rằng với điều hành chung về vĩ mô của Chính phủ, các bộ, ngành cũng như điều hành tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thì chúng ta có thể thực hiện được việc giữ ổn định được lãi suất và giảm được lãi suất cho vay trong thời gian tới – Thống đốc khẳng định.
Kiểm soát chặt dòng vốn vào BĐS và BOT
Về kiểm soát dòng vốn đổ vào bất động sản và các dự án BOT, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, vừa qua có một số các ngân hàng cho vay dự án BOT. Theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước thời gian vừa qua kiểm soát rất chặt chẽ những dòng tín dụng vào những lĩnh vực cho vay rủi ro có thể gây bất ổn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là lĩnh vực bất động sản và một số dự án BOT.
Đối với BOT, hiện nay dư nợ tốc độ tăng trưởng tín dụng cho lĩnh vực BOT thấp hơn so với năm trước. Tỷ trọng tín dụng cho BOT chỉ chiếm khoảng 1,5% trong tổng dư nợ tín dụng tức là mức rất thấp và hiện nay nợ xấu được kiểm soát ở mức rất thấp.
Tuy nhiên nhu cầu vốn rất lớn cho các dự án BOT. Vừa qua chúng tôi yêu cầu các tổ chức tín dụng là phải kiểm soát chặt các hoạt động tín dụng cho vay BOT và bất động sản.
Trong 10 tháng năm 2017, tín dụng cho vay bất động sản chỉ khoảng 7,1% và tỷ trọng tín dụng cho vay bất động sản trên tổng dư nợ chỉ khoảng 6,5%, trong khi cùng kỳ năm ngoái thì tín dụng cho bất động sản cỡ khoảng trên 10% và tỷ trọng cũng khoảng hơn 7%. Như vậy, là cả cấp độ tăng và tỷ trọng cũng đã giảm. Chúng ta cũng đã kiểm soát được rủi ro và dành tín dụng cho những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và những lĩnh vực ưu tiên.
Thời gian tới đây, theo chỉ đạo của Chính phủ thì Ngân hàng nhà nước vẫn quyết tâm kiểm soát rất chặt chẽ những rủi ro trong lĩnh vực.
Tuy nhiên, nhu cầu vốn rất lớn cho nên hệ thống ngân hàng vẫn có thể tiếp tục cung ứng vốn cho vay những dự án nếu phương án tài chính là khả thi và các nhà đầu tư có năng lực thực sự. Điều này là yếu tố then chốt trong việc cho vay các dự án BOT giao thông.
Đồng thời với việc đó, kiểm soát tín dụng cho bất động sản thì chúng tôi kiểm soát bằng các tỷ lệ an toàn. Ví dụ chúng tôi đã tăng hệ số rủi ro khi cho vay tín dụng bất động sản và chúng tôi giảm tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Đây là những công cụ rất quan trọng để kiểm soát được tốc độ tín dụng vào những lĩnh vực rủi ro.
Cơ cấu lại các công ty tài chính tiêu dùng
Trả lời chất vấn về tình hình hoạt động của các công ty tài chính tiêu dùng, lãi suất và giải pháp để bảo vệ được khách hàng vay và an toàn đối với công ty tài chính tiêu dùng, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, hiện nay lãi suất cho vay của các công ty tài chính tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại.
Thống đốc lý giải, bản chất của tín dụng tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn so với loại hình cho vay khác vì đây là khoản vay tín chấp và tài sản thế chấp thấp hơn so với mức vay. Chi phí cũng cao hơn do phải có mạng lưới phủ rộng để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vay. Ngoài ra, các khoản vay này thời hạn ngắn, giá trị cho vay nhỏ, chi phí lớn. Chi phí vốn cho các công ty tài chính tiêu dùng bao giờ cũng cao do cơ cấu vốn của các công ty này không huy động trực tiếp từ dân cư mà chủ yếu là tự huy động nguồn vốn từ các tổ chức.
Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, hoạt động của các công ty tài chính tiêu dùng, lãi suất có quy định cụ thể, các công ty và khách hàng tự thỏa thuận về lãi suất theo quy định của pháp luật. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư về riêng hoạt động của các công ty tài chính để tăng cường tính minh bạch của các công ty khi cho vay. Đặc biệt, đã công bố công khai lãi suất, điều kiện cho vay, phương pháp tính lãi… “Những thông tin này, chúng tôi yêu cầu công ty tài chính phải minh bạch”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định.
Ngoài ra, trong công tác quản lý nhà nước về tiêu dùng, trong chương trình đề án của Chính phủ về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đã có nhóm giải pháp riêng để cơ cấu lại các công ty tài chính trong đó có hoạt động tài chính tiêu dùng. “Chúng tôi có giải pháp và lộ trình thực hiện. Chúng tôi yêu cầu các công ty tài chính có lộ trình cơ cấu lại cho đến năm 2020 để tổ chức thực hiện, giao cho các đơn vị chức năng của Ngân hàng Nhà nước giám sát”. Nhấn mạnh điều này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, công tác thanh tra tài chính tiêu dùng là nhiệm vụ quan trọng sẽ được Ngân hàng Nhà nước tăng cường trong thời gian tới để đảm bảo hoạt động của các công ty tài chính tiêu dùng minh bạch, đúng pháp luật.
Sử dụng bitcoin là không hợp pháp
Liên quan đến tiền điện tử (bitcoin), Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định, “đây không phải vấn đề của Việt Nam, mà còn của nhiều quốc gia khác trên thế giới và nhiều quốc gia đang nghiên cứu về điều chỉnh, quản lý đồng tiền này như thế nào”.
Trên thế giới có nhiều kinh nghiệm, có nước cấm không sử dụng, nhưng có nước khuyến cáo rủi ro liên quan đến giao dịch bitcoin, có nước cho phép sử dụng, song số liệu này không nhiều.
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã có ý kiến nhiều lần, theo quy định pháp luật hiện hành, bitcoin không phải đồng tiền mặt, không phải phương tiện thanh toán hợp pháp, nên các giao dịch sử dụng đồng tiền này là giao dịch không hợp pháp.
Hiện nay, nếu nhìn nhận bitcoin là tài sản, là hàng hóa, thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết thêm.
Chính phủ giao các bộ, ngành, trong đó Bộ Tư pháp chủ trì, nghiên cứu Đề án khuôn khổ pháp lý quản lý hàng hóa ảo, trong đó có bitcoin. Ngân hàng Nhà nước với giác độ quản lý tiền tệ sẽ phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng cơ sở pháp lý. “Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là trong xu thế phát triển hiện nay của thế giới cần có cơ sở để quản lý đồng tiền ảo, trong đó có bitcoin".
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Không ít vàng đã chuyển hóa vào nền kinh tế
Về giải pháp huy động vốn trong dân và các giải pháp đảm bảo tiền gửi, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, trên thực tế đã chuyển hóa được không ít vàng vào nền kinh tế.
Với ngoại tệ, trong thời gian qua đã có nhiều giải pháp để chuyển hóa nguồn lực này, nhưng việc áp lãi suất gửi ngoại tệ ở mức 0% không có nghĩa chưa chuyển hóa được nguồn lực này, mà thực tế nguồn lực này được chuyển sang đồng tiền VNĐ.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, khi chính sách ổn định, thị trường ổn định, chúng ta đã mua được một lượng rất lớn ngoại tệ từ người dân và tổ chức tín dụng bán cho Ngân hàng Nhà nước.
“Nếu Chính phủ tiếp tục kiên định theo con đường này sẽ chuyển hóa được một lượng lớn vàng, ngoại tệ vào sản xuất, kinh doanh”, Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.
Liên quan đến cam kết bảo hiểm tiền gửi, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, quan điểm của Quốc hội, Chính phủ là trong bất kỳ trường hợp nào khi xử lý tổ chức tín dụng phải bảo đảm an ninh kinh tế, an toàn của hệ thống ngân hàng, giữ lòng tin của người gửi tiền, quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Trong dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã bổ sung quy định đầy đủ để điều chỉnh nội dung này.
“Ngân hàng Nhà nước mong muốn các đại biểu Quốc hội sẽ ủng hộ các chính sách được đưa vào dự án Luật này, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, để có các giải pháp xử lý cho các tình huống khác nhau, giữ lòng tin của người gửi tiền”, Thống đốc Lê Minh Hưng nói.
Tăng trưởng tín dụng phải gắn chất lượng, hiệu quả
Về vấn đề tăng trưởng tín dụng phục vụ tăng trưởng kinh tế, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, vấn đề tăng trưởng và các cơ sở, động lực cho tăng trưởng, từ khía cạnh ngân hàng, căn cứ vào Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, chúng tôi xây dựng kịch bản điều hành cho năm 2017 là tín dụng tăng trưởng ở mức 18% và có điều chỉnh linh hoạt tùy theo diễn biến kinh tế vĩ mô và nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 10/2017 tăng 13,66%, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2016. Tốc độ này không có gì đột biến.
“Hiện nay, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước đối với tín dụng là tăng trưởng tín dụng phải đi kèm với bảo đảm chất lượng và hiệu quả tín dụng, quan trọng là tín dụng phải đưa vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh”, Thống đốc Lê Minh Hưng nêu rõ.
Thống đốc Lê Minh Hưng cũng cho biết, trong báo cáo chi tiết gửi đến đại biểu, Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo rõ cơ cấu tín dụng, nhìn vào 10 tháng đầu năm 2017 đã tập trung vào đúng lĩnh vực ưu tiên: Tăng trưởng tín dụng cho lĩnh vực chế biến chế tạo, lĩnh vực phát triển nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ... đã giữ được mức cao hơn so với năm trước và cao hơn mức bình quân các năm. Đây là những lĩnh vực động lực cho tăng trưởng.
“Ngân hàng Nhà nước bảo đảm tăng trưởng tín dụng từ nay đến cuối năm tăng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, không gây áp lực lên kinh tế vĩ mô, lạm phát. Chúng tôi sẽ giám sát chặt chẽ chất lượng vào hiệu quả tín dụng, bảo đảm đưa tín dụng vào những lĩnh vực để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế”, Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.
Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Cho vay nông nghiệp công nghệ cao đã đáp ứng nhu cầu trung, dài hạn
Về triển khai gói tín dụng 100.000 tỷ đồng cho vay nông nghiệp lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp sạch, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, thực tế quá trình triển khai chính sách tín dụng cho nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch mới chỉ triển khai được 6 tháng.
Cho đến nay, dư nợ đã đạt 36.000 tỷ đồng trong gói 100.000 tỷ đồng, trong đó, kỳ hạn dài chiếm xấp xỉ 60%. Như vậy, tín dụng cho nông nghiệp công nghệ cao đã đáp ứng được nhu cầu đầu tư nguồn vốn lớn trung và dài hạn.
“Tôi cho rằng, quá trình triển khai chỉ mới một thời gian ngắn, tốc độ tăng trưởng và quy mô tín dụng như vậy cũng khá cao”, Thống đốc Lê Minh Hưng nói.
Khối lượng doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn này đã có khoảng 6.000 khách hàng cá nhân và 400 doanh nghiệp. Một chính sách mới triển khai đòi hỏi sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan, chính quyền địa phương và doanh nghiệp, đặc biệt giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ NNPTNT, thì “chúng tôi cũng đã phối hợp chặt chẽ theo chỉ đạo của Chính phủ”.
Tuy nhiên, Thống đốc Lê Minh Hưng cũng thừa nhận, trên thực tế cũng còn những vấn đề hạn chế như đại biểu nêu. Việc khó tiếp cận nguồn vốn có một số lý do. Thứ nhất, so với nhu cầu thì số lượng khu vực, vùng nông nghiệp công nghệ cao và các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao còn hạn chế. Điều này cũng là một yếu tố khiến cho ngân hàng thận trọng khi cho vay. Thứ hai, vấn đề tiêu thụ sản phẩm, đây là yếu tố quyết định để các ngân hàng xem xét cho vay. Thứ ba, giấy chứng nhận tài sản trên đất để thế chấp vay vốn ngân hàng còn khó khăn nhất định.
“Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ NNPTNT sẽ đẩy mạnh chuyển dịch tái cơ cấu nông nghiệp, đặc biệt nông nghiệp công nghệ cao, để tạo lập những vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch”, Thống đốc Lê Minh Hưng nhấn mạnh.
Dự trữ ngoại hối lập kỷ lục 46 tỷ USD
Phát biểu trước khi các đại biểu đặt câu hỏi chất vấn, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, trong năm vừa qua, ngành ngân hàng đã nhận được nhiều chất vấn từ các đại biểu Quốc hội và NHNN đã có văn bản trả lời đầy đủ, kịp thời.
“Là ngành gắn với đời sống sản xuất, kinh doanh của người dân và DN, NHNN luôn lắng nghe, tiếp cận sâu sát thực tiễn, chỉ đạo các chi nhánh NHNN, các TCTD giải quyết những kiến nghị triệt để tại cơ sở”, Thống đốc chia sẻ và khảng định: “Chúng tôi luôn xem trả lời chất vấn của cử tri là việc làm thường xuyên không chỉ tập trung vào các kỳ họp Quốc hội, trên cơ sở kiến nghị của cử tri, NHNN đã gửi báo báo kết quả thực hiện tới các vị đại biểu Quốc hội”.
Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, thời gian qua NHNN đã đạt được những kết quả tích cực như: Giữ ổn định mặt bằng lãi suất, giảm lãi suất cho vay với những lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tăng trưởng tín dụng hiệu quả và an toàn, tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối lên cao nhất từ trước tới nay.
“Từ khi khai mạc phiên họp đến nay thì dự trữ ngoại hối đã tăng thêm 1 tỷ USD và sáng nay chúng tôi đã báo cáo đồng chí Tổng Bí thư và Thủ tướng dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng lên mức 46 tỷ USD”, Thống đốc chia sẻ và khẳng định: Như vậy, chúng ta đã mua được 7 tỷ USD từ đầu năm đến nay, đây là kết quả rất tích cực.
Bên cạnh đó, ngành ngân hàng cũng đã triển khai quyết liệt Đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, nhờ đó nợ xấu được kiểm soát ở mức dưới 3%, hoạt động ngân hàng an toàn hiệu quả hơn.
Ngành ngân hàng cũng đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhằm bãi bỏ và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho DN tiếp cận nguồn vốn tín dụng, 2 năm liên tiếp NHNN dẫn đầu các chỉ số về cải cách hành chính.
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong hơn 10 tháng đã qua của năm 2017, với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, cùng sự quyết liệt của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ và sự nỗ lực của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong vấn đề giảm lãi suất, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh và triển khai tích cực công tác tái cơ cấu hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu... đã góp phần vào tăng trưởng GDP quý III, cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam, đồng thời nâng triển vọng, uy tín hệ thống ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế.
Kỳ vọng tăng trưởng tươi sáng, bức tranh ngân hàng tích cực
Nhìn lại 3/4 chặng đường đã qua của năm 2017, có thể thấy, bên cạnh những khó khăn, thách thức, ngành ngân hàng cũng đón nhận không ít tin vui.
Trong báo cáo công bố hôm 31/10, Moody's Investors Service đã nâng triển vọng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực” trong vòng 12-18 tháng tới, qua đó phản ánh kỳ vọng tăng trưởng kinh tế tươi sáng và bức tranh tích cực đối với các ngân hàng được xếp hạng tín nhiệm.
Đây là lần thứ hai nâng hạng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong vòng 6 năm trở lại đây.
Theo NHNN, việc Moody’s tiếp tục nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam là một tín hiệu tích cực phản ánh hiệu quả của việc Chính phủ thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cùng với công tác điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động của NHNN; đặc biệt là việc quyết liệt triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đã đem lại hiệu quả rõ rệt, giữ vững an toàn hệ thống và được các tổ chức quốc tế ghi nhận.
Chỉ số tiếp cận tín dụng tăng điểm, tăng bậc
Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 (Doing Business Report 2018) của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây cũng cho thấy, chỉ số "Tiếp cận tín dụng" (Getting credit) của Việt Nam xếp thứ hạng 29 trên tổng số 190 quốc gia được khảo sát, đạt 75 điểm trên thang điểm 100, tăng 5 điểm so với năm 2017 và cao hơn trung bình của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (57/100 điểm).
Như vậy, chỉ số tiếp cận tín dụng đã đạt mục tiêu đặt ra trong kế hoạch hành động của ngành ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020.
So với năm 2017, chỉ số này đã tăng 5 điểm và cải thiện 3 bậc.
Tại phiên họp thường kỳ tháng 10 của Chính phủ, khi đánh giá về tình hình kinh tế xã hội, trước các tin vui về xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam tăng 14 bậc và việc Moody’s nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam,Thủ tướng cũng nhìn nhận và đánh giá cao NHNN.
Những “trái ngọt” mà ngành ngân hàng gặt hái được phải kể đến sự hỗ trợ của Chính phủ, vì nhờ đó mới có thể giúp tăng mức xếp hạng của một số ngân hàng. Việc nâng mức xếp hạng đối với Chính phủ Việt Nam, hiện đang ở mức tích cực, sẽ dẫn đến việc nâng mức xếp hạng của một loạt ngân hàng. Đồng thời, đó còn là kết quả từ những nỗ lực của ngành ngân hàng trong giảm lãi suất, linh hoạt điều hành tỷ giá, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh và sự quyết liệt triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu...
Giảm lãi suất – tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Trong 6 tháng đầu năm 2017, mặt bằng lãi suất được giữ ổn định và giảm mặc dù có sức ép tăng.
Từ ngày 10/7, để hỗ trợ giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, trên cơ sở đánh giá thận trọng diễn biến lạm phát có chiều hướng tăng chậm và khả năng kiểm soát theo mục tiêu 4% của Quốc hội, đồng thời hoạt động ngân hàng có diễn biến tích cực, NHNN đã điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành của NHNN, 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên, có văn bản chỉ đạo các TCTD tiếp tục chủ động triển khai các biện pháp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Đánh giá cao động thái này của NHNN, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, việc giảm lãi suất chính sách sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nắn dòng tiền ngân hàng vào các lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên phát triển, như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Phiên chất vấn Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng. Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Tại buổi kiểm tra tại NHNN về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng giao và các giải pháp góp phần bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2017, Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ nhận định: “Quyết định này của NHNN thể hiện trách nhiệm của ngành ngân hàng đối với nền kinh tế và thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Chính phủ”.
Kết quả của việc thực thi đồng bộ các giải pháp nêu trên, các TCTD đã tích cực triển khai chủ trương của Chính phủ và NHNN, giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng tích cực thực hiện giảm lãi suất cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp hơn khoảng 0,5-1%/năm, giảm lãi suất một số chương trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu tiên xuống còn khoảng 8%/năm, triển khai các gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội (như cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; cho vay ngành cấp nước sạch; đồng hành cùng doanh nghiệp xuất khẩu; hợp tác phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ); áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng tốt khoảng 4-5%/năm.
Đồng thời, các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và NHNN.
VND thuộc nhóm ổn định nhất châu Á
Bên cạnh nỗ lực giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp, điều hành tỷ giá của NHNN cũng được các chuyên gia và tổ chức quốc tế đánh giá cao, qua đó tăng niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước với đồng Việt Nam và môi trường đầu tư.
Những tháng qua, thanh khoản thị trường tốt, hệ thống các TCTD mua ròng ngoại tệ từ khách hàng; các nhu cầu hợp lý, hợp pháp của tổ chức, cá nhân về ngoại tệ đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời; NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Đến ngày 25/10, tỷ giá trung tâm tăng 1,4%, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,19% so với cuối năm 2016.
Hiện nay, thị trường ngoại tệ trong nước đã có bước phát triển đáng kể, do vậy, bên cạnh việc thực hiện giao dịch truyền thống là mua/bán ngoại tệ giao ngay, NHNN triển khai giao dịch kỳ hạn với các TCTD để bổ sung công cụ cho các thành viên trên thị trường.
NHNN thực hiện mua ngoại tệ kỳ hạn, trên cơ sở cân nhắc diễn biến lãi suất, tỷ giá, sẽ hỗ trợ các TCTD chủ động hơn trong việc cân đối dòng tiền (bao gồm cả cân đối dòng tiền phục vụ tín dụng) và có thêm lựa chọn trong việc bán ngoại tệ cho NHNN, từ đó khuyến khích TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối.
Trên thị trường quốc tế, mặc dù USD có diễn biến tăng giá sau cuộc họp của Fed từ 20/9 đến nay, tuy nhiên nếu so với cuối năm 2016 thì tính đến ngày 6/10, USD thế giới đã giảm giá trên 8%; VND đang giảm giá với hầu hết đồng tiền các đối tác thương mại chính (-4,04% so với CNY, -3,52% so JPY, -10,18% so EUR, -5,13% so KRW, -5,83% so TWD, -5,49% so SGD và -6,52% so THB), do vậy, việc NHNN giảm tỷ giá mua là phù hợp với diễn biến trên thị trường quốc tế, đồng thời mức giảm được cân nhắc phù hợp với mặt bằng chung thị trưởng để vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Trong một đánh giá mới đây của hãng tin Bloomberg về mức độ ổn định tiền tệ của một số đồng tiền thuộc khu vực châu Á, Việt Nam đồng (VNĐ) được nhận định là đồng tiền thuộc nhóm ổn định nhất ở châu Á, đánh giá này được đưa ra dựa trên những con số so sánh thuyết phục. Hãng tin Bloomberg đưa ra nhận định này trong công bố mới đây dựa trên phân tích về biến động của đồng tiền Việt Nam trong những tháng liên tiếp gần đây.
Các chuyên gia trong nước thì cho rằng, sự ổn định sẽ còn được duy trì đến hết năm nhờ những yếu tố tích cực của nền kinh tế. TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh doanh, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nhận định, dòng vốn nước ngoài rút ra khỏi các nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan khá mạnh trong khi tại Việt Nam lại không phải chịu hiện tượng rút vốn ồ ạt của nước ngoài.
Trái lại, Việt Nam lại thu hút được thêm đầu tư nước ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Qua 9 tháng năm 2017, riêng đầu tư vào mua cổ phần và cổ phiếu đã lên tới 4,2 tỷ USD, cao gấp 3 lần năm 2016. Đây cũng là nhờ vào chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam rất ổn định.
Tổng giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam - ông Phạm Hồng Hải cũng nhận định, hiện VND là đồng tiền có tính ổn định nhất trong khu vực, nên HSBC cũng nhận thấy không có áp lực gì lớn lên tỷ giá trong năm nay.
NHNN linh hoạt trong điều hành nhưng kiên định trong mục tiêu duy trì ổn định thị trường tiền tệ, nhờ đó lạm phát đã được kiểm soát theo mục tiêu do Quốc hội đề ra, vị thế VND được nâng cao, tỷ giá ổn định; tất cả các yếu tố đó là nền tảng cơ bản để ổn định mặt bằng lãi suất huy động VND để từng bước giảm lãi suất cho vay.
Hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh
Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân và đảm bảo phù hợp với chủ trương của Chính phủ, tín dụng đối với nền kinh tế đã liên tục tăng ngay từ đầu năm và tăng đều qua các tháng.
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), đến 24/10, tổng dư nợ đối với nền kinh tế tăng 12,83% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm 2015 tăng 11,93%, năm 2016 tăng 12,45%).
Tín dụng được tập trung vào sản xuất kinh doanh, cụ thể, với các lĩnh vực ưu tiên: Dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đến cuối tháng 10/2017 tăng 19,0%, chiếm tỷ trọng 21% tổng dư nợ cho vay nền đối với kinh tế; Tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu đến cuối tháng 8/2017 tăng 8,14%; cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 25,12% so với năm 2016; với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển tăng 18,90%; với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,49% và chiếm tỷ trọng 20,89% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng đã hỗ trợ tích cực về nguồn vốn cho GDP 9 tháng đầu năm tăng 6,41%, cao hơn nhiều so mức tăng 5,99% của 9 tháng đầu năm 2016. Vốn tín dụng đã đến với doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo đúng định hướng của Chính phủ.
Tại Hội thảo “Nâng cao hiệu quả kết nối ngân hàng – doanh nghiệp” diễn ra ngày 19/10 vừa qua, các chuyên gia đều đánh giá cao chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, là chương trình hành động cụ thể, chưa từng có tiền lệ đối với một cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Chương trình còn cho thấy tính chủ động, sáng tạo và sự tích cực thúc đẩy tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp từ phía NHNN, các NHTM.
Bên cạnh đó, giải quyết các thủ tục vay, xây dựng quy trình vay là một trong những vấn đề cải tiến hàng đầu của các ngân hàng hiện nay nhằm đẩy nhanh nguồn vốn ra nền kinh tế và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững.
Trong quý III/2017, NHNN đã ban hành Quyết định công bố danh mục thủ tục hành chính thực hiện và không thực hiện qua dịch vụ bưu chính công ích thuộc thẩm quyền giải quyết của NHNN. Theo quyết định công bố, trừ 8 thủ tục hành chính thực hiện qua mạng internet hoặc phải nộp trực tiếp, toàn bộ 326 thủ tục hành chính còn lại đều có thể nộp hồ sơ, nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp tùy thuộc nhu cầu của tổ chức, công dân.
NHNN cũng đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện đề án “Đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước” tại NHNN, phấn đấu giảm tối thiểu 20% số báo cáo định kỳ, bãi bỏ các báo cáo không phù hợp với yêu cầu quản lý, lược bỏ những chỉ tiêu, nội dung báo cáo trùng lắp, không cần thiết.
Theo công bố kết quả xác định chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) của Bộ Nội vụ trong 4 năm (2013 - 2016), trong số 19 bộ ngành, NHNN luôn là đơn vị đứng vị trí hàng đầu.
Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, các chương trình tín dụng trọng điểm khác cũng được ngành ngân hàng triển khai tích cực, tháo gỡ dần những vướng mắc cho bà con ngư dân, nông dân vay vốn, như cho vay hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP, cho vay nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ cũng đạt những kết quả bước đầu. Ngoài ra, vốn ngân hàng còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển xã hội, tạo xung lực cho giảm nghèo bền vững
Những năm qua, mỗi khi đồng bào trên khắp các vùng miền bị thiệt hại nặng nề do thiên tai, ngành ngân hàng cũng luôn chủ động có những hỗ trợ thiết thực, giúp bà con khắc phục hậu quả.
Vừa qua, để hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, khôi phục lại sản xuất, kinh doanh, khắc phục hậu quả do bão lũ tháng 10/2017 và cơn bão số 12 gây ra, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã ban hành các văn yêu cầu Chủ tịch HĐQT/HĐTV, Tổng Giám đốc các TCTD và Giám đốc NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch chủ động rà soát, tổng hợp thiệt hại của khách hàng đang vay vốn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất sau mưa lũ...
Quyết liệt triển khai tái cơ cấu và xử lý nợ xấu
Một trong những lý do để Moody’s nâng triển vọng hệ thống ngân hàng Việt Nam còn là sự quyết liệt của ngành ngân hàng trong triển khai Đề án tài cơ cấu và xử lý nợ xấu.
Ngày 21/6, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42). Cùng với đó, ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” (Đề án 1058).
Ngay sau khi Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ngày 20/7/2017, NHNN đã ban hành Chỉ thị 06/CT-NHNN để triển khai thực hiện trong toàn ngành ngân hàng. Cũng trong ngày 20/7/2017, NHNN đã có Quyết định 1533/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án 1058. Ngày 21/7/2017, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để triển khai Nghị quyết 42 và Quyết định 1058 trong toàn ngành ngân hàng. Đồng thời, NHNN đã có các văn bản hướng dẫn các TCTD (theo từng nhóm, loại hình TCTD) xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020.
NHNN đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của Đề án và chỉ đạo toàn ngành Ngân hàng triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp thuộc trách nhiệm của ngành Ngân hàng.
Có thể thấy, sau khi có Nghị quyết 42, công tác thu hồi, xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD (VAMC) cũng thuận lợi hơn khi nhiều rào cản trong xử lý nợ xấu được dỡ bỏ.
Theo ông Đoàn Văn Thắng, Tổng Giám đốc VAMC, từ tháng 8/2017 đến nay, sau khi triển khai việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, VAMC thu hồi được khoảng 5.000 tỷ đồng, đưa tổng số nợ thu hồi từ đầu năm đến nay khoảng 16.000 tỷ đồng.
Tính từ khi thành lập vào năm 2013 đến nay, tổng số nợ xấu mà VAMC đã xử lý đạt 66.000 tỷ đồng, tương đương 3 tỷ USD. Dự kiến từ nay đến cuối năm, VAMC sẽ mua thêm ít nhất 2.000 tỷ đồng nợ xấu của các TCTD theo giá thị trường.
Tổng Giám đốc VAMC cho biết, sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, việc thu giữ tài sản của VAMC tốt hơn rất nhiều. Trước đây TCTD cũng như VAMC thu giữ trên cơ sở Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, tuy nhiên tốc độ xử lý vẫn còn chưa được như mong muốn do quyền của chủ nợ vẫn yếu thế. Còn Nghị quyết 42 đã bảo vệ chủ nợ tốt hơn và một lần nữa khẳng định quyền thu giữ tài sản đảm bảo.
Theo NHNN, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những nỗ lực và kết quả tích cực nói trên sẽ là bước đệm vững chắc để ngành ngân hàng hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2017 và các năm tiếp theo, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế./.