Tọa đàm tập trung nhận diện bối cảnh mới tác động đến an ninh, quốc phòng và phát triển bền vững của Việt Nam; đồng thời đề xuất các nhóm giải pháp chiến lược về thể chế-quản trị an ninh, về kinh tế-quốc phòng và về xã hội-con người-cộng đồng.
Tham dự Tọa đàm có các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia thuộc Viện An ninh phi truyền thống (Trường Quản trị và Kinh doanh, ĐHQG Hà Nội); Hội đồng Lý luận trung ương; Ban Chính sách Chiến lược Trung ương; các đơn vị, học viện thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng...

GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống phát biểu khai mạc Tọa đàm - Ảnh: VGP
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Trung tướng, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống cho biết, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV đưa ra quan điểm chỉ đạo: Lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh bền vững đất nước, nâng cao đời sống hạnh phúc của nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với những văn kiện các kỳ Đại hội Đảng trước, dự thảo Văn kiện lần này xác định phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa con người làm nền tảng; tăng cường quốc phòng an ninh và đẩy mạnh đối ngoại hội nhập quốc tế là trọng yếu và thường xuyên. Quan điểm chỉ đạo này có sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng. Do đó, Tọa đàm "Bảo đảm an ninh, quốc phòng gắn với phát triển bền vững trong định hướng chiến lược Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam" tập trung vào 2 nhóm vấn đề : Phát triển bền vững và An ninh quốc phòng để các đại biểu thảo luận. Các ý kiến góp ý tại Tọa đàm sẽ được tổng hợp gửi Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

GS.TS. Hoàng Đình Phi, Hiệu trưởng Trường Quản trị và Kinh doanh - Ảnh: VGP
Khái quát và gợi mở những vấn đề về quản trị an ninh phi truyền thống (ANPTT) trong bối cảnh mới và góp ý những nội dung Dự thảo Văn kiện, GS.TS. Hoàng Đình Phi, Hiệu trưởng Trường Quản trị và Kinh doanh, cho biết: Về phát triển bền vững quốc gia, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của các học giả thế giới, các nhà lãnh đạo quốc tế và Liên Hợp Quốc về việc cần theo đuổi và quyết liệt thực hiện nhanh 17 mục tiêu phát triển bền vững đã được đề ra của Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện các mục tiêu này, và chúng ta tự hào về những kết quả đạt được, từ xoá đói giảm nghèo, phát triển bình đẳng giới, đến phát triển kinh tế và tạo việc làm bền vững (như Mục tiêu 8 của Liên Hợp Quốc). Đặc biệt, chúng ta đã có những tiến bộ trong Mục tiêu 5 về bình đẳng giới, Mục tiêu 8 về việc làm, Mục tiêu 10 và 12 về sản xuất và tiêu dùng có trách nhiệm, cũng như Mục tiêu 17 về hợp tác quốc tế để triển khai tất cả 16 mục tiêu khác.
Tuy nhiên, khi xem xét các trụ cột chính của phát triển bền vững theo cách tiếp cận truyền thống gồm kinh tế, xã hội và môi trường, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của trụ cột chính trị và an ninh. Theo tôi, phát triển bền vững cần dựa trên ít nhất 5 trụ cột, hoặc thậm chí nhiều hơn để tương ứng với 17 mục tiêu phát triển bền vững.
Dựa trên các nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập, tự chủ, tự cường và giá trị cốt lõi "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc", chúng ta cần đề cao vai trò của trụ cột chính trị với sự ổn định vững chắc. Đây là yếu tố nền tảng quan trọng nhất, sau đó mới đến trụ cột kinh tế, đảm bảo sự phát triển bao trùm, nơi mọi người dân và doanh nghiệp đều được hưởng lợi từ thành quả phát triển kinh tế. Hạnh phúc và ấm no là thước đo của sự phát triển kinh tế, thông qua việc tạo mới và giữ vững việc làm ổn định, đặc biệt là việc làm trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số và kinh tế tri thức.
Trụ cột thứ ba là xã hội, với mục tiêu công bằng và bình đẳng. Công bằng là tạo cơ hội cho mọi người, còn bình đẳng là tạo điều kiện để họ hưởng thụ cơ hội đó dựa trên năng lực và sự đóng góp, đi đôi với trách nhiệm đối với quốc gia.
Trụ cột thứ tư là môi trường. Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức. Các yếu tố cấu thành môi trường tự nhiên như hệ sinh thái thực vật, động vật, đất, nước, không khí, tài nguyên,... đang có dấu hiệu xuống cấp. Mặc dù việc ban hành các nghị quyết của Đảng và các bộ luật của Nhà nước đang ngày càng tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, tạo nên một nền pháp lý văn minh, nhưng quá trình thực thi pháp luật vẫn còn nhiều thách thức do liên quan đến văn hóa, lịch sử, truyền thống và các mâu thuẫn kinh tế. Chúng ta cần nhìn nhận cả điểm sáng và điểm tối để từng bước giải quyết.
Trụ cột thứ năm quan trọng không kém là an ninh phi truyền thống. Ngay cả khi các trụ cột khác như chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường đều ổn định và được duy trì tốt, thì mọi nỗ lực phát triển sẽ trở nên vô nghĩa nếu an ninh phi truyền thống không được đảm bảo. An ninh phi truyền thống, theo định nghĩa của chúng tôi, bao gồm ba yếu tố cốt lõi: Sự an toàn, sự ổn định và tính bền vững của bất kỳ lĩnh vực nào. Ví dụ, an ninh kinh tế không chỉ là tăng trưởng GDP hai con số mà còn phải xem xét liệu sự tăng trưởng đó có đảm bảo an toàn, ổn định và bền vững trong dài hạn hay không, cơ cấu ngành công nghiệp có phù hợp với xu thế công nghệ hay không.
Với an ninh phi truyền thống, chúng ta cần xem xét sự ổn định và an toàn của trụ cột chính trị. Các rủi ro phi truyền thống cũng đe dọa nghiêm trọng đến sự an toàn, ổn định và bền vững của nền kinh tế, xã hội và môi trường. Các vấn đề như buôn lậu, trốn thuế, rửa tiền, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai,.. có thể xóa sạch những thành quả phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đã đạt được. Do đó, việc giữ vững các thành quả này thông qua đảm bảo an ninh phi truyền thống là cực kỳ quan trọng.
Trong 30 năm qua, tôi theo dõi khoảng 90% chiến lược ở các cấp, đặc biệt là cấp bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, còn mang tính chung chung, thiếu tính cụ thể và khả thi. Điều này dẫn đến việc chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển công nghệ và thị trường.
Do đó, tôi đề xuất một số nội dung như sau:
Thứ nhất, về tự chủ chiến lược, Việt Nam cần chủ động hội nhập và xây dựng các chiến lược cụ thể dựa trên năng lực nội tại, hợp tác quốc tế và sự tham vấn từ các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nhân.
Thứ hai, về quản trị chiến lược, cần có những quy định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý đối với những người tham gia quản trị chiến lược, tương tự như trong luật môi trường, để đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu quả.
Thứ ba, về đào tạo chuyên nghiệp, cần đẩy mạnh đào tạo, nâng cao tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, trang bị cho họ kiến thức, kỹ năng và công cụ quản trị chiến lược.
Thứ tư, về tổ chức tư vấn độc lập, xây dựng các tổ chức tư vấn độc lập, có năng lực và uy tín, để hỗ trợ công tác hoạch định và thực thi chiến lược.

Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Bá Dương (Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng) - Ảnh: VGP
Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Bá Dương (Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng) kiến nghị một số nội dung đóng góp vào Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, tập trung vào lĩnh vực quốc phòng – an ninh, gắn kết hài hòa với phát triển: Thế giới đang bước vào một giai đoạn mới với các xu hướng nổi bật: Hội nhập quốc tế sâu rộng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư lan tỏa nhanh chóng, nhưng đồng thời, các nguy cơ rủi ro về an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng. Đại dịch, biến đổi khí hậu, khủng bố, tội phạm mạng, chiến tranh công nghệ... trở thành những thách thức đan xen, không biên giới, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh con người, an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
Trong nước, Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, nhưng cũng phải đối mặt với nguy cơ các mâu thuẫn xã hội, tội phạm công nghệ cao, xâm nhập tư tưởng, và các hoạt động chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Vì vậy, việc bảo đảm an ninh quốc gia toàn diện gắn với phát triển bền vững không chỉ là nhiệm vụ chính trị - quân sự, mà còn là yêu cầu kinh tế - xã hội, cần được nhìn nhận với tầm chiến lược.
Trên cơ sở nhận diện tình hình mới, tôi đề xuất 6 nội dung trọng tâm, có thể bổ sung làm rõ dự thảo Văn kiện.
Thứ nhất, Văn kiện nên nhấn mạnh việc xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân, nền quốc phòng toàn dân gắn với phát triển – an ninh, bảo vệ sự thịnh vượng, tức là mọi chính sách phát triển phải đảm bảc quốc phòng và mọi hoạt động quốc phòng phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước.
Thực tiễn cho thấy các quốc gia thành công đều phát triển năng lực quân sự, an ninh trong khi thúc đầy kinh tế - xã hội, thay vì tách rời hai lĩnh vực này. Việc xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng kết hợp, phát triển hạ tầng chiến lược, mạng lưới công nghệ quốc phòng - an ninh hiện đại là hướng đi khả thi.
Thứ hai, an ninh phi truyền thống cần đặt con người vào trung tâm của an ninh quốc gia
Trong bối cảnh mới, các mối đe dọa phi truyền thống như dịch bệnh, thiên tai, khủng bố, tội phạm mạng... tác động trực tiếp đến đời sống người dân, đến sự ổn định xã hội. Vì vậy, Văn kiện nên bổ sung quan điểm: "An ninh con người là hạt nhân của an ninh quốc gia", nhấn mạnh mọi chính sách, mọi biện pháp quốc phòng, an ninh đều hướng tới bảo vệ lợi ích, tính mạng và quyền lợi cơ bản của nhân dân. Cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, năng lực ứng phó linh hoạt, đồng thời nâng cao ý thức tự bảo vệ của người dân, doanh nghiệp, cộng đồng, tạo "mạng lưới an ninh phi truyền thống toàn dân".
Thứ ba, liên kết chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với tăng cường năng lực quốc phòng - an ninh
Nhiều hoạt động phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng, giao thông, logistics, có thể vừa tạo giá trị kinh tế vừa củng cố năng lực quốc phòng - an ninh. Văn kiện nên nhấn mạnh: "Kinh tế an ninh - An ninh kinh tế", nghĩa là vừa phát triển kinh tế vừa nâng cao khả năng tự chủ quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, bảo đảm chuỗi cung ứng, hạ tầng trọng yếu. Việc này còn bao gồm bảo vệ dữ liệu, hạ tầng số, nghiên cứu công nghệ quốc phòng - an ninh theo hướng phục vụ cả mục tiêu kinh tế lẫn quốc phòng.
Thứ tư là ứng phó chủ động với các thách thức phi truyền thống và rủi ro mới.
Thế giới thay đổi nhanh, các rủi ro phi truyền thống xuất hiện đa dạng, liên ngành, không biên giới. Văn kiện nên đề xuất: xây dựng "Cơ chế phản ứng linh hoạt - thời gian thực", tức là hệ thống ứng phó rủi ro, khủng hoảng, dịch bệnh, thiên tai, tội phạm mạng… được tổ chức theo mô hình liên ngành, liên vùng, cập nhật dữ liệu liên tục và phản ứng kịp thời. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, khủng bố, dịch bệnh... trong khuôn khổ chủ quyền quốc gia.
Thứ năm là phát triển năng lực con người trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
Một nền an ninh - quốc phòng toàn diện không thể thiếu nhân lực chất lượng cao, am hiểu công nghệ, pháp luật và chiến lược. Văn kiện nên nhấn mạnh đào tạo nguồn nhân lực chiến lược, gắn kết giữa học thuật - nghiên cứu - thực tiễn, nâng cao năng lực thích ứng với công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, logistics chiến lược. Đây là cách tạo ra "lực lượng mềm - sức mạnh cứng", vừa năng động vừa hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ quốc gia trong mọi tình huống.
Thứ sáu là xây dựng tư duy chiến lược mới về an ninh - quốc phòng.
Cần bổ sung quan điểm: An ninh, quốc phòng không chỉ là phòng thủ truyền thống, mà là chiến lược tổng hợp, bao gồm kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, công nghệ, gắn với hội nhập quốc tế.
Có thể khẳng định rằng bảo đảm an ninh quốc gia toàn diện trong bối cảnh mới không thể tách rời phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Mối quan hệ này là tương hỗ, hài hòa và chiến lược, là trụ cột để Việt Nam vừa giữ vững chủ quyền, độc lập, vừa nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Để hiện thực hóa tầm nhìn này, Văn kiện Đại hội XIV cần: Nhấn mạnh an ninh con người là trung tâm của quốc phòng toàn dân; tích hợp quốc phòng - an ninh vào mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; phát triển năng lực nhân lực, hạ tầng, công nghệ quốc phòng - an ninh, đồng thời ứng phó linh hoạt với các thách thức phi truyền thống; đưa ra các quan điểm, cụm từ chiến lược, độc đáo để thể hiện tầm nhìn đổi mới, hội nhập, bền vững và hiện đại.
Một đất nước phát triển bền vững là đất nước mà quốc phòng - an ninh luôn song hành với phát triển, mọi chính sách được hoạch định trên cơ sở tối ưu hóa lợi ích an ninh và thịnh vượng kinh tế - xã hội, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với mọi thách thức mới.

Trung tướng, PGS.TS.NGƯT Phạm Xuân Tuy, Uỷ viên Hội đồng Lý luận Bộ Công an, Giám đốc Học viện Chính trị CAND - Ảnh: VGP
Trung tướng, PGS.TS.NGƯT Phạm Xuân Tuy, Uỷ viên Hội đồng Lý luận Bộ Công an, Giám đốc Học viện Chính trị CAND: Trước yêu cầu đóng góp để Văn kiện trở thành cương lĩnh hành động, ngọn đuốc soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào kỷ nguyên mới, thực hiện khát vọng Hồ Chí Minh, chúng tôi gồm Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện và cá nhân tôi luôn coi đây là cơ hội để tiếp tục nghiên cứu, góp ý từ phiên bản đầu đến phiên bản 4, và sẽ gửi bản góp ý hoàn chỉnh cho Trung ương trong vài ngày tới.
Điều dễ nhận thấy là mọi đảng viên trong Đảng bộ đều nghiêm túc nghiên cứu, nắm vững quá trình hình thành, bổ sung và hoàn thiện Văn kiện; dù không phát biểu, mỗi người đều có ý thức trách nhiệm sâu sắc với Đảng.
Thứ nhất, trong đường lối cách mạng, chỉ có 2 chiến lược quốc gia: Phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII đã nhấn mạnh nhiệm kỳ này phải tiếp tục thực hiện thắng lợi hai chiến lược ấy. Các chiến lược khác như quốc phòng, an ninh, kể cả an ninh truyền thống và phi truyền thống chỉ là thành phần cấu thành trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ Đại hội XIV đặt ra là phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, dựa trên ba trụ cột phát triển bền vững gắn liền với đặc trưng thể chế chính trị và lịch sử Việt Nam, đó chính là độc lập, tự chủ về đường lối chính trị.
Trong bối cảnh quốc tế phân tầng, phức tạp, sự tự chủ chiến lược của Việt Nam đã được thừa nhận rộng rãi. 33 đối tác chiến lược toàn diện, trong đó có Mỹ và Nhật Bản, đều công nhận thể chế của ta. Ổn định chính trị 40 năm qua là nền tảng của phát triển, đó là thành quả của độc lập, tự chủ về chính trị. Phát triển bền vững phải gắn liền với ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, kinh tế, xã hội, đối ngoại và con người.
Thứ hai, khi bàn về chiến lược con người, cần trở lại tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Quốc phòng, an ninh không thể tách rời phát triển bền vững; ngược lại, phát triển bền vững là nền tảng vững chắc cho quốc phòng, an ninh.
Từ đó, tôi xin nhấn mạnh vấn đề trọng tâm cần biên tập lại trong mục 10 của Văn kiện, phần về quốc phòng, an ninh, cần chỉnh sửa để thể hiện rõ tư tưởng "tự chủ chiến lược".
Một là, bảo vệ Tổ quốc là chiến lược quốc gia trung tâm, các chiến lược quốc phòng- an ninh là thành phần cấu thành.
Hai là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Ba là, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Bốn là, phải thể hiện tư duy mới về chiến tranh công nghệ cao, an ninh phi truyền thống, an ninh dữ liệu, an ninh môi trường, và công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, những yếu tố gắn trực tiếp với chuyển đổi số quốc gia.
Đặc biệt, cần làm rõ rằng: Xây dựng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, hiện đại không chỉ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mà còn đóng góp trực tiếp vào phát triển đất nước, hạnh phúc nhân dân, hòa bình và an ninh quốc tế. Đó là tư duy quốc phòng, phát triển mới, phù hợp tinh thần mà Tổng Bí thư đã khẳng định: "Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh không chỉ là bảo vệ Tổ quốc, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển".
Như vậy, trong biên tập Văn kiện, phải thể hiện rõ: quốc phòng, an ninh không chỉ "gắn" mà đã là một bộ phận hữu cơ của phát triển bền vững; đầu tư cho quốc phòng, an ninh chính là đầu tư cho phát triển. Nghị quyết 44 (ngày 24/11/2023) của Bộ Chính trị đã khẳng định điều đó và đó là định hướng đúng đắn, khoa học và hiệu quả.

TS. Nguyễn Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, tỉnh Tuyên Quang - Ảnh: VGP
TS. Nguyễn Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, tỉnh Tuyên Quang: Tuyên Quang là tỉnh nghèo, điều kiện kinh tế - xã hội còn hạn chế, có đường biên giới dài. Trong nhiều cuộc thảo luận, chúng ta đã nói nhiều về mối quan hệ hai chiều giữa phát triển kinh tế và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, với Tuyên Quang, mục tiêu ưu tiên hàng đầu không phải là tăng trưởng kinh tế, mà là "an dân", giữ vững đường biên, mốc giới, tức là bảo vệ Tổ quốc và củng cố an ninh chính trị, trật tự xã hội. Đây là yếu tố xuyên suốt trong chiến lược phát triển của tỉnh.
Trong phát triển kinh tế - xã hội, chúng tôi đặc biệt chú trọng đến mối liên hệ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, nhất là trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Khái niệm này rất rộng, nhưng với Tuyên Quang, điều cấp thiết nhất là tác động của môi trường và biến đổi khí hậu, vốn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, an sinh xã hội và an ninh vùng biên.
Đợt lũ lụt do bão số 10 vừa qua, Tuyên Quang ghi nhận 01 người chết, 01 người mất tích, 09 người bị thương, gần 25.000 ngôi nhà bị hư hại. Tổng thiệt hại ước tính 4.755 tỷ đồng, tương đương hơn một nửa tổng thu ngân sách hằng năm của tỉnh. Những con số này không chỉ phản ánh thiệt hại vật chất mà còn cho thấy thực tế, khi người dân sống trong lo lắng, thiếu an toàn, đó cũng là dấu hiệu của bất ổn an ninh phi truyền thống.
Tuyên Quang có diện tích hơn 13.000 km², dân số hơn 1 triệu người, dân cư thưa thớt, đường biên giới dài 174 km. Công tác thông tin, liên lạc, an ninh mạng, dưới sự phối hợp của các ngành, vẫn còn nhiều khó khăn. Việc phân công nhiệm vụ giữa các cấp, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, chưa thật đồng bộ, hiệu quả công việc còn hạn chế. Thực tiễn đó khiến chúng tôi càng thấm thía những nhận định về bối cảnh thế giới đầy biến động, khó dự báo, khi các chiến lược phát triển cũ dần bộc lộ bất cập. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ xảy ra dồn dập, làm thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội ở nhiều vùng. Điều đó đặt ra những câu hỏi lớn về phát triển bền vững và chính sách môi trường trong tương lai.
Các thách thức phi truyền thống như an ninh mạng, năng lượng, môi trường ngày càng phức tạp. Theo tôi, thiên nhiên vốn hài hòa; sự mất cân bằng hôm nay chủ yếu do con người gây ra. Phát triển kinh tế nếu đánh đổi bằng môi trường là mất "cái gốc" của phát triển bền vững. Vì vậy, tôi mong vấn đề môi trường và an ninh phi truyền thống được nhìn nhận đúng tầm, không chỉ là kỹ thuật, mà là một trụ cột của an ninh quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến ổn định và phát triển kinh tế.
Từ thực tế địa phương, tôi cho rằng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng - an ninh là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Kinh tế vững mạnh là điều kiện để củng cố quốc phòng, an ninh; ngược lại, quốc phòng - an ninh vững mạnh là nền tảng để phát triển kinh tế bền vững. Khi đất nước mạnh và tự chủ, vị thế, tiếng nói của chúng ta mới được lắng nghe.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng các chương trình phát triển hiện nay vẫn thiếu tính liên kết, còn nặng tính ngành dọc, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các lĩnh vực, dẫn đến hiệu quả chưa cao, đôi khi còn mâu thuẫn trong thực hiện chính sách ở vùng cao, vùng biên giới.
Từ thực tiễn đó, tôi xin đề xuất 3 nội dung:
Một là, xây dựng Chiến lược an ninh quốc gia toàn diện đến năm 2050, xác định rõ các trụ cột của an ninh phi truyền thống, thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương.
Hai là, phát triển quốc phòng - an ninh lưỡng dụng, gắn với công nghiệp và công nghệ cao quốc gia; thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khai thác hợp lý các khu kinh tế quốc phòng.
Ba là, xây dựng văn hóa ứng phó rủi ro cộng đồng, lấy con người làm trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững.
Phát triển kinh tế có thể tạo ra của cải vật chất, nhưng chỉ khi người dân cảm thấy an toàn, an tâm, tin tưởng vào tương lai, chúng ta mới thực sự đạt được mục tiêu cao nhất của an ninh, đó là "an dân".
TS. Nguyễn Anh Dương - Trưởng phòng Nghiên cứu tổng hợp và hội nhập quốc tế, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược thuộc Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương: Tôi xin trình bày một số nội dung chính liên quan đến tư duy quản trị quốc gia, tập trung vào những điểm chính có thể đóng góp vào việc xây dựng văn kiện.
Thứ nhất là về hội nhập quốc tế. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hội nhập quốc tế, đặc biệt kể từ khi mở cửa, gia nhập các cơ chế hội nhập kinh tế quốc tế. Sau đó, chúng ta có Nghị quyết 22 mở rộng hội nhập quốc tế. Gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Sự quan tâm đối với hội nhập quốc tế ngày càng tăng, và các thành quả tích cực từ hội nhập đã được đánh giá cao trong các văn kiện.
Trước đây, hội nhập quốc tế chủ yếu được nhìn nhận là tạo thêm cơ hội kinh tế và tăng cường năng lực cho người dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng tác động trở lại đến quản trị quốc gia, thúc đẩy đổi mới thể chế.
Trong các văn kiện gần đây, có một đánh giá rất quan trọng là công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế còn những điểm chưa theo kịp, còn bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế, quốc phòng và an ninh. Đặc biệt, vấn đề an ninh phi truyền thống đang đặt ra những yêu cầu mới.
Khi tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), chúng ta đã kiên quyết bảo vệ không gian chính sách cho Việt Nam, ví dụ như không cho phép nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ phân phối dược phẩm để tạo dư địa cho doanh nghiệp trong nước phát triển. Tuy nhiên, trong giai đoạn dịch COVID-19, Việt Nam đã gặp khó khăn trong việc tự chủ vaccine. Chúng ta đã thực hiện "ngoại giao vaccine". Nhưng việc cung cấp vaccine đòi hỏi một hệ thống phân phối tương thích, bao gồm kho lạnh và các điều kiện bảo quản nghiêm ngặt. Sau dịch, cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài, đã đặt vấn đề về việc mở cửa cho doanh nghiệp nước ngoài tham gia phân phối dược phẩm tại Việt Nam. Luật Dược sửa đổi vừa qua đã có sự điều chỉnh nhất định.
Từ góc độ chiến lược, xử lý vấn đề an ninh phi truyền thống đôi khi đòi hỏi cách tiếp cận vượt ra ngoài các cam kết truyền thống. Nếu chỉ thực hiện đúng cam kết quốc tế, chúng ta có thể thiếu các nguồn lực, công nghệ cần thiết cho an ninh y tế và sức khỏe. Do đó, tôi kiến nghị rằng trong một số lĩnh vực cụ thể, Văn kiện nên khuyến nghị cân nhắc các ý tưởng hợp tác quốc tế vượt khuôn khổ các cam kết truyền thống để đảm bảo an ninh phi truyền thống.
Thứ hai là nguồn lực hỗ trợ từ nước ngoài, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật thông qua vốn ODA, ngày càng hạn chế khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Mỗi nguồn hỗ trợ đều rất quý giá. Tuy nhiên, hiện nay, hỗ trợ kỹ thuật nước ngoài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu và xây dựng chính sách, đôi khi còn thiếu sự tham gia sâu vào việc hoạch định chính sách thực tế do những ràng buộc về cam kết. Cần có sự cân bằng giữa việc huy động nguồn lực này cho phát triển bền vững và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Thứ ba là phát triển các mô hình kinh tế mới. Coi đây là động lực góp phần xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống. Kinh tế tuần hoàn là một ví dụ. Ở góc độ kinh tế và môi trường, nó là mô hình khép kín, giảm thiểu chất thải. Nhưng ở góc độ chính trị, an ninh và công nghệ, đây là một nội dung quan trọng. Nhiều quốc gia áp dụng kinh tế tuần hoàn để kiểm soát công nghệ và các sản phẩm có chứa kim loại hiếm, đảm bảo sự tự chủ. Các mô hình kinh tế số, kinh tế có hàm lượng carbon thấp cũng đóng góp vào sự tự chủ, tự cường và có thể cả lưỡng dụng. Do đó, tôi đề xuất phát triển các mô hình kinh tế mới và coi đây là một động lực quan trọng, dù không phải là chủ chốt, trong việc giải quyết các vấn đề an ninh kinh tế.

TS. Lộc Thị Thủy (Viện Nghiên cứu châu Âu và châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) - Ảnh: VGP
TS. Lộc Thị Thủy (Viện Nghiên cứu châu Âu và châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam): Viện Hàn lâm cũng là một cơ quan trực thuộc Chính phủ và cũng có nhiệm vụ tư vấn chiến lược cho Chính phủ. Thời gian qua, chúng tôi đã hợp tác rất nhiều với các nước ở khu vực châu Mỹ và châu Âu, tập trung vào nhiều vấn đề liên quan đến an ninh phi truyền thống. Hôm nay, với tư cách của một nhà khoa học, một người trẻ và muốn phát triển đất nước trong thời gian tới, tôi xin chia sẻ một số đóng góp cụ thể trong nội dung Văn kiện.
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược phát triển an ninh phi truyền thống và coi an ninh phi truyền thống nằm trong tổng thể của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta mặc dù nhắc đến chiến lược nhưng đâu đó vẫn chưa có một chiến lược tổng thể.
Chúng tôi nhiều lần khuyến nghị Vụ Chính sách chiến lược của Bộ Ngoại giao phải đưa vấn đề an ninh phi truyền thống vào và thậm chí xuất khẩu an ninh phi truyền thống bởi rất nhiều kinh nghiệm xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống của Việt Nam mà thế giới cần. Nhiều đại sứ các nước ở Việt Nam làm việc với chúng tôi chia sẻ rằng rất muốn Việt Nam hỗ trợ về mặt cơ chế, thể chế, pháp lý, đặc biệt nhất là về mặt kỹ thuật. Bởi vì họ đến Việt Nam, thấy Việt Nam là một đất nước rất an toàn nhưng không biết làm cách nào có thể an toàn được như thế. Sự kiện A80 chúng ta đảm bảo được an ninh an toàn. Đấy là một điều đáng ngạc nhiên và họ rất là muốn hợp tác với chúng ta. Chúng ta cần tập trung vào vấn đề này và coi đây là nền tảng để phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phải coi an ninh phi truyền thống là nền tảng phát triển kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế. Những kinh nghiệm của chúng ta để đảm bảo được an ninh thì chúng ta hoàn toàn làm được. Ví dụ như an ninh lương thực. Chúng ta là nước rất mạnh trên thế giới về xuất khẩu lương thực. Tại sao chúng ta không lấy lợi thế của chúng ta làm bàn đạp?
Rất nhiều nước ở khu vực Mỹ Latin nói rằng muốn học tập kỹ thuật canh tác nông nghiệp, đặc biệt là lúa nước. Tôi nghĩ đấy là một cách để xuất khẩu. Rất nhiều nước ở Mỹ Latin đã không đảm bảo được an ninh quốc gia, không đảm bảo được nền chính trị. Họ không sản xuất thì họ không có lương thực thực phẩm. Khi không sản xuất thì không tạo ra được giá trị thặng dư, dẫn đến bất ổn xã hội, và điều đó ảnh hưởng đến chính trị và ổn định của quốc gia.
Thứ ba là coi an ninh phi truyền thống là yếu tố quan trọng để đảm bảo và phát triển an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh phi truyền thống để đảm bảo an ninh truyền thống. Bây giờ an ninh truyền thống và phi truyền thống có ranh giới rất nhỏ. Khi nghiên cứu về chiến lược của các nước lớn, chúng tôi thấy rằng các nước hầu như đang sử dụng rất nhiều yếu tố an ninh phi truyền thống để thực hiện vấn đề an ninh truyền thống.
Do đó chúng ta đang có lợi thế rất lớn, chúng ta cần xây dựng chiến lược tổng thể về an ninh phi truyền thống.
Tôi thấy rằng có một thứ chúng ta cần tập trung trong thời gian tới, đó là phát triển an ninh kinh tế với an ninh văn hóa. Hai nội dung này tôi nghĩ là quan trọng nhất đối với Việt Nam.
Trong an ninh kinh tế có rất nhiều thứ chúng ta có thể chia nhỏ, như năng lượng, công nghệ…
Thời gian tới, chúng ta cần phải có định hướng rõ ràng và phải đưa vào nghị quyết để tất cả các bộ ngành cùng tham gia.

Ông Nguyễn Hồng Sâm, Tổng Giám đốc Cổng TTĐT Chính phủ, Tổng Biên tập Báo Điện tử Chính phủ phát biểu tại Tọa đàm - Ảnh: VGP
Ông Nguyễn Hồng Sâm, Tổng Giám đốc Cổng TTĐT Chính phủ, Tổng Biên tập Báo Điện tử Chính phủ: Những ý kiến của các đại biểu tại Tọa đàm ngày hôm nay sẽ được tổng hợp để góp ý vào văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV. Đồng thời sau Tọa đàm, Cổng TTĐT Chính phủ sẽ tổng hợp các ý kiến để báo cáo với Thủ tướng Chính phủ, qua đó lãnh đạo Chính phủ có những chỉ đạo tới các cơ quan chức năng tiếp tục thực hiện tốt công tác ứng phó với những khủng hoảng, rủi ro an ninh phi truyền thống đặt ra.
Buổi Tọa đàm hôm nay cho thấy, Viện An ninh phi truyền thống không chỉ làm tốt công tác đào tạo mà còn tổ chức công tác góp ý để hoàn thiện cơ chế chính sách. Đơn cử như Nghị quyết số147/NQ-CP ngày 22/5/2025 ban hành Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 18/9 vừa qua, Bộ Công an đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết số147/NQ-CP ngày 22/5/2025 ban hành Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ.
Hay ngày 18/10/2022 Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã tổ chức Tọa đàm "An ninh phi truyền thống và thách thức đặt ra" với sự tham dự của nhiều giảng viên, nhà nghiên cứu của Viện An ninh phi truyền thống. Tất cả những ý kiến góp ý tại Tọa đàm đó đã được báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Sau đó Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công an và các cơ quan chức năng tiếp thu để xây dựng Nghị quyết của Chính phủ.
Những vấn đề trên cho thấy, an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề chúng ta bàn ngày hôm nay, cũng không xa vời đối với mỗi quốc gia, dân tộc mà rất thiết thực với mỗi người dân hôm nay.
Chính vì vậy tôi xin được góp ý kiến đó là chúng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế, làm phong phú hơn các chiến lược quốc gia để đối phó và xử lý có hiệu quả các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đặt ra.
Thứ hai, trong tất cả các đề án, dự án lớn ảnh hưởng đến cả một vùng, một không gian và ảnh hưởng đến nhiều người, chúng ta phải tính đến những rủi ro, nguy cơ an ninh phi truyền thống đặt ra. Phải tính đến đầu tư như thế nào đối với vấn đề này cho phù hợp.
Thứ ba là chúng ta phải phối hợp, hợp tác quốc tế và tranh thủ các nguồn lực của quốc tế để xử lý, đối phó với các nguy cơ an ninh phi truyền thống.
Trung tướng, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta cần có cái nhìn sâu sắc hơn về các thách thức an ninh.
Theo lịch trình, thời hạn cuối cùng để các cơ quan Trung ương gửi ý kiến góp ý là ngày 15/11. Chúng tôi đề nghị Viện An ninh phi truyền thống sẽ gửi tài liệu cho GS.TS. Hoàng Đình Phi và Tổng Giám đốc Cổng TTĐT Chính phủ Nguyễn Hồng Sâm tổng hợp, gửi cho Tiểu ban Văn kiện Trung ương. Mục tiêu là đóng góp một số ý kiến để hoàn thiện hơn dự thảo Văn kiện của Trung ương, chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV. Việc này nhằm góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho việc ban hành một loạt chính sách, pháp luật của Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành trong thời gian tới.
Thay mặt Ban Tổ chức, xin trân trọng cảm ơn các quý đại biểu./.