Điều 5 của Luật Thuế giá trị gia tăng (VAT) hiện quy định về đối tượng không chịu thuế gồm nhiều mặt hàng như: Nông sản chưa chế biến, giống cây trồng, giống vật nuôi, phân bón, máy nông nghiệp, tàu cá, thức ăn chăn nuôi, muối, phần mềm máy tính, và một số loại máy móc, thiết bị, vật tư khác…
Các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng hoá thuộc nhóm này đang được hưởng lợi là không phải đóng thuế VAT cho sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này cũng đồng thời không được khấu trừ thuế VAT đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, sản phẩm tương tự nhập khẩu cũng không phải chịu thuế VAT khi nhập khẩu nhưng lại được hoàn thuế VAT khi xuất khẩu ra khỏi nước đối tác. Như vậy, đối với các mặt hàng thuộc diện không chịu thuế, hàng hoá nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng hoá sản xuất trong nước.
Theo khảo sát nhanh của VCCI đối với một số doanh nghiệp có liên quan, số thuế VAT chưa được khấu trừ của các mặt hàng nói trên xuất phát từ các chi phí đầu vào chịu thuế như chi phí nhà xưởng, văn phòng, chi phí năng lượng (điện, than, xăng dầu), vận tải, mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông, bao bì, in ấn, quảng cáo, chi phí nguyên vật liệu đầu vào (đối với các loại nguyên vật liệu chịu thuế như kim loại, khoáng sản…) và một số chi phí khác. Tỉ lệ thuế VAT chưa được khấu trừ trong giá thành của các mặt hàng này khác nhau, tuỳ từng dòng sản phẩm cụ thể và từng doanh nghiệp cụ thể. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, tỉ lệ thuế VAT chưa được khấu trừ có thể dao động từ 1% đối với một số loại nông sản đến 8% đối với phân bón, máy móc.
Quy định về đối tượng không chịu thuế VAT đang gây tác động không mong muốn là bảo hộ ngược, khuyến khích nhập khẩu hàng hoá thay vì sản xuất trong nước. Hàng hoá nhập khẩu có chi phí thuế thấp hơn so với hàng hoá sản xuất trong nước chính là chi phí thuế VAT chưa được khấu trừ kể trên.
Đây là vấn đề cần khắc phục trong lần sửa đổi Luật Thuế GTGT lần này, nếu không sẽ khiến sản xuất trong nước tiếp tục chịu thua thiệt, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển của đất nước.
Nếu so sánh với thuế nhập khẩu, khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTAs), Việt Nam chỉ chấp nhận hạ thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng với một số đối tác theo nguyên tắc có đi có lại (tức là các nước khác cũng phải đồng ý mở cửa thị trường cho hàng hoá của Việt Nam). Trong khi đó, quy định về đối tượng không chịu thuế VAT đã khiến Việt Nam "cho không" tất cả các nước đối tác số tiền thuế rất lớn và "mở toang" thị trường trong nước của rất nhiều mặt hàng với lợi thế cho hàng nhập khẩu.
Dự thảo đã đưa ra định hướng thu hẹp phạm vi đối tượng không chịu thuế tại Điều 5 của Luật. Đây là quan điểm hợp lý và cần thiết nhằm khuyến khích sản xuất trong nước. Tuy nhiên, Dự thảo Luật mới chỉ đề cập vấn đề này đối với phân bón, tàu cá và máy móc nông nghiệp với giải pháp đưa ra là chuyển các mặt hàng này từ diện không chịu thuế sang diện thuế suất 5%. Các mặt hàng còn lại thuộc diện không chịu thuế, dù gặp vấn đề bảo hộ ngược tương tự, nhưng chưa có giải pháp.
Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để loại bỏ các mặt hàng thuộc đối tượng không chịu thuế theo một số nguyên tắc. Đó là với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam không nhập khẩu từ nước ngoài (hoàn toàn tự sản xuất, cung ứng và tiêu dùng trong nước) thì tiếp tục duy trì diện không chịu thuế. Đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam có nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu dùng trong nước thì cần loại bỏ khỏi diện không chịu thuế mà chuyển sang các mức thuế suất phù hợp.
Về các mức thuế suất khi chuyển các mặt hàng không chịu thuế, VCCI góp ý có thể cân nhắc một số phương án.
Phương án 1: Chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất 5%
Phương án này có ưu điểm là dựa trên mức thuế suất 5% hiện hành, không bổ sung mức thuế mới, không làm phức tạp thêm hệ thống thuế. Tuy nhiên, do chỉ có mức thuế suất 5% nên tác động sẽ không đồng đều đến các mặt hàng, các doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp có tỉ trọng thuế VAT chưa khấu trừ lớn hơn 5% thì việc chuyển về mức 5% có lợi lớn cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, vừa giảm được số thuế phải nộp lại bảo đảm công bằng thuế với hàng hoá nhập khẩu.
Đối với những doanh nghiệp có tỉ trọng thuế VAT chưa khấu trừ nhỏ hơn 5% thì việc chuyển về mức 5% chưa bảo đảm lợi ích. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước các mặt hàng này được lợi là bình đẳng với hàng hoá nhập khẩu nhưng sẽ phải nộp thêm thuế cho Nhà nước.
Phương án 2: Chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất 5% hoặc 0%
Theo đó, các mặt hàng có tỉ trọng thuế VAT chưa được khấu trừ trên 5% thì chuyển về mức 5%, còn các mặt hàng có tỉ trọng thuế VAT chưa được khấu trừ dưới 5% thì chuyển về mức 0%.
Phương án này cũng có ưu điểm là dựa trên các mức thuế suất hiện hành là 0% và 5%, không bổ sung mức thuế mới. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước đều được hưởng lợi do giảm số thuế phải đóng và được bình đẳng với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, phương án này sẽ khiến ngân sách Nhà nước phải chi nhiều tiền để hoàn thuế cho các doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ gian lận thuế cao, chi phí hành thu (quản lý thuế) rất lớn.
Phương án 3: Chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất khác nhau.
Việc lựa chọn mức thuế suất phù hợp để chuyển các mặt hàng này sang cần căn cứ vào chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ của mặt hàng đó trong giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Cụ thể, mức thuế suất mới luôn thấp hơn so với chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Ví dụ, đối với mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 6% trong giá thành sản phẩm thì nên chuyển sang diện thuế suất 5%; mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 4% thì có thể chuyển về mức 3%.
Phương án này sẽ khiến các mặt hàng sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu chịu chung một mức thuế suất, xoá bỏ toàn bộ việc bảo hộ ngược. Các mặt hàng trong nước sẽ được khấu trừ thuế đầu vào trung bình bằng hoặc cao hơn một chút so với số thuế đầu ra. Do đó, nghĩa vụ thuế cuối cùng của các doanh nghiệp sản xuất trong nước hầu như không thay đổi. Trong khi đó, hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ phải đóng thuế ở khâu nhập khẩu, thay vì không chịu thuế như hiện nay. Ngân sách nhà nước có thể hụt thu một chút từ hàng hoá sản xuất trong nước, nhưng lại thu thêm được nhiều hơn từ hàng hoá nhập khẩu.
Phương án 4: Cho phép doanh nghiệp trong nước chọn phương pháp tính thuế.
Theo phương án này, toàn bộ hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng trong nước (không thuộc diện xuất khẩu) được phân loại vào 2 nhóm với thuế suất 5% và 10%. Theo đó, chuyển toàn bộ hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế sang diện thuế suất 5%; không còn diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. Nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 10% vẫn tiếp tục thực hiện các quy định về thuế như hiện hành.
Nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5% được bổ sung vào diện cho phép lựa chọn phương pháp tính thuế khấu trừ hoặc phương pháp tính thuế trực tiếp (tại Điều 10 và Điều 11 của Luật).
Như vậy, đối với các doanh nghiệp trong nước sản xuất các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế theo pháp luật hiện hành có chi phí thuế chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm nhỏ hơn 5% sẽ có xu hướng lựa chọn phương pháp tính thuế trực tiếp (thuế suất 0% trên doanh thu và không được khấu trừ đầu vào)
Đối với các doanh nghiệp trong nước sản xuất các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế có chi phí chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm lớn hơn 5% sẽ có xu hướng lựa chọn phương pháp tính thuế khấu trừ. Các doanh nghiệp diện này sẽ được hưởng lợi hơn so với quy định hiện hành cả về số thuế phải nộp và được bình đẳng với hàng nhập khẩu.
Phương án này có ưu điểm là cơ quan soạn thảo không cần thực hiện khảo sát để tìm hiểu chi phí thuế chưa được khấu trừ trung bình của các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước là bao nhiêu. Đồng thời cũng không phát sinh các mức thuế mới mà vẫn chỉ có các mức 5% và 10% như hiện hành.
Tuy nhiên nhược điểm của phương án này là có nguy cơ bị phản ánh là hàng hoá nhập khẩu bị đối xử kém thuận lợi hơn so với hàng hoá trong nước, do hàng hoá nhập khẩu buộc phải nộp thuế 5% trên giá trị hải quan, còn hàng hoá trong nước được lựa chọn nộp theo phương pháp khẩu trừ (5% trên GTGT) hoặc phương pháp trực tiếp (không được khấu trừ thuế đầu vào). Mặc dù vậy, nguy cơ bị phản ánh là không cao, do hiện nay, Việt Nam đã có quy định về việc cho phép doanh nghiệp trong nước được chọn giữa phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trong khi hàng hoá nhập khẩu buộc phải nộp thuế theo trị giá hải quan.
Anh Minh