In bài viết

Về việc phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dân sự

(Chinhphu.vn) - Gia đình ông Lê Văn Khoa (quynhmaibongyeu@...) ký hợp đồng chuyển nhượng 1 thửa đất 400 m2 cho bà Nguyễn Thị Minh. Bà Minh đã nhận đất và trả 70% giá trị theo hợp đồng. Số tiền còn lại bà Minh cam kết thanh toán sau khi thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn thành.

25/07/2013 09:11

Ảnh minh họa
Nay, thủ tục đã thực hiện xong, nhưng đã qua 3 tháng, bà Minh không thanh toán số tiền còn lại. Ông Khoa hỏi, trường hợp này gia đình ông có quyền phạt bà Minh thực hiện sai thỏa thuận không?

Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng- Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời:

Hợp đồng là sự thỏa thuận mang tính bắt buộc giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ. Nhằm đảm bảo các thỏa thuận được thực hiện nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền, pháp luật có quy định thỏa thuận phạt vi phạm là một biện pháp phòng ngừa, xử lý vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm 

Theo quy định tại Điều 422 Bộ luật Dân sự, phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận. Như vậy việc phạt vi phạm chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận của các bên về mức phạt trong hợp đồng.

Căn cứ quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự, khi các bên giao kết hợp đồng xảy ra tranh chấp, bên cho rằng mình bị phía bên kia vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Bên có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, nếu họ không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.

Cụ thể, đối với yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, phạt vi phạm, bên đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh hành vi vi phạm của phía bên kia.

Căn cứ vào việc đánh giá chứng cứ, xác định hành vi vi phạm, Tòa án sẽ buộc bên vi phạm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Việc phạt vi phạm, Tòa án sẽ căn cứ vào mức phạt đã được thỏa thuận trong hợp đồng để xác định.

Trường hợp ông Lê Văn Khoa, khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bên mua đã nhận đất và trả 70% giá trị tiền mua thửa đất cho ông. Số tiền còn lại (30%) bên mua cam kết sau khi làm xong giấy tờ chuyển nhượng, sang tên chủ sử dụng thì sẽ thanh toán nốt. Thủ tục đã thực hiện xong, nhưng đã qua 3 tháng, bên mua chưa thanh toán số tiền còn lại đó. Đây là trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ông Khoa có quyền yêu cầu bên mua thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán đã cam kết và nộp phạt chậm thanh toán (nếu trong hợp đồng có thỏa thuận).

Trường hợp bên mua kéo dài thời gian, không thanh toán, ông cần khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào các chứng cứ chứng minh việc bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Tòa án sẽ buộc bên mua thanh toán đủ số tiền cho ông. Áp dụng khoản 2, Điều 438 và khoản 2, Điều 305 Bộ luật Dân sự,Tòa án sẽ tuyên buộc bên mua phải trả lãi kể từ ngày chậm trả, theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Nếu trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký có thỏa thuận về việc phạt và mức phạt vi phạm nghĩa vụ, thì Tòa án sẽ căn cứ vào hợp đồng để xác định trị giá tiền phạt buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện nộp tiền phạt.

Luật sư Lê Văn Đài

VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.