In bài viết

Việt Nam, Cuba: Hai dân tộc, một mối tình

(Chinhphu.vn) - Trong quan hệ quốc tế hiện đại, hiếm có mối quan hệ nào đặc biệt, trong sáng và nồng ấm như tình hữu nghị giữa Việt Nam và Cuba. Vượt qua nửa vòng trái đất, ngăn cách bởi đại dương bao la, hai dân tộc anh em đã tìm thấy nhau, đồng hành và sát cánh bên nhau trong những năm tháng gian khổ nhất của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

11/09/2025 09:01
Việt Nam, Cuba: Hai dân tộc, một mối tình- Ảnh 1.

Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Cuba Miguel Diaz Canel hội kiến Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và tham dự các hoạt động kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Mối quan hệ ấy được khởi nguồn từ nền tảng lý tưởng cách mạng, được vun đắp bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng dân tộc Cuba José Martí và Lãnh tụ Fidel Castro, được các thế hệ lãnh đạo nối tiếp nhau và nhân dân hai nước không ngừng gìn giữ, phát huy trở thành một di sản vô giá cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đó không chỉ là mối quan hệ ngoại giao đơn thuần, mà là tình đồng chí, nghĩa anh em thủy chung, son sắt, một câu chuyện cảm động về tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản đã đi vào lịch sử nhân loại.

Từ "Một cuộc dạo chơi" đến cây cầu hữu nghị vững chắc

Mối lương duyên lịch sử giữa hai dân tộc đã được gieo mầm từ rất sớm, trước cả khi hai nước chính thức đặt quan hệ. Ngay từ tháng 7/1889, trong bài viết "Một cuộc dạo chơi trên đất nước của những người An Nam" đăng trên tạp chí Tuổi vàng, người Anh hùng dân tộc Cuba José Martí đã giới thiệu đến các em nhỏ Cuba về một đất nước Việt Nam xa xôi với những hình ảnh thân thương, bình dị. Bài viết ấy như một sợi dây vô hình, kết nối tâm hồn hai dân tộc, để rồi hơn 70 năm sau, khi cuộc cách mạng Cuba thành công vào ngày 01/01/1959, cây cầu hữu nghị vững chắc bắt đầu được bắc lên.

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, khi Việt Nam đang phải gồng mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự ủng hộ của Cuba là nguồn động viên vô cùng to lớn. Ngày 02/12/1960, Cuba đã trở thành quốc gia đầu tiên ở Mỹ Latin chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quyết định lịch sử này không chỉ thể hiện tầm nhìn của nhà cách mạng huyền thoại Che Guevara, người đã cử Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Héctor Rodríguez Llompart sang Việt Nam để thực hiện sứ mệnh cao cả này mà còn mở ra một chương mới rực rỡ trong lịch sử quan hệ hai nước.

Ngay sau đó, những bước đi đầu tiên nhằm củng cố và phát triển mối quan hệ đặc biệt này đã nhanh chóng được triển khai. Ngày 17/02/1961, Việt Nam cử ông Hoàng Văn Lợi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Cuba. Tháng 5/1961, phái đoàn chính thức đầu tiên của Việt Nam do Bộ trưởng Hoàng Minh Giám dẫn đầu sang thăm Cuba, đặt nền móng cho các hoạt động giao lưu, hợp tác sau này.

Một trong những quyết định mang tính chiến lược và thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Lãnh tụ Fidel Castro là đề xuất cử sinh viên Việt Nam sang học tiếng Tây Ban Nha tại Cuba. Tháng 11/1961, nhóm 23 sinh viên Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Thủ đô La Habana, để rồi sau này nhiều người trong số họ trở thành những cán bộ nòng cốt, những nhà ngoại giao xuất sắc, những cầu nối quan trọng cho tình hữu nghị hai nước.

Năm 1963, một sự kiện mang ý nghĩa chính trị sâu sắc diễn ra: Ủy ban Cuba đoàn kết với miền Nam Việt Nam do nữ Anh hùng Moncada, Melba Hernández, làm Chủ tịch được thành lập. Đây là phong trào đoàn kết quốc tế có quy mô lớn, thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ và toàn diện của nhân dân Cuba đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam. Cuba cũng là nước đầu tiên công nhận về mặt ngoại giao Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và cử Đại sứ bên cạnh Ủy ban Trung ương của Mặt trận. Những hành động này là minh chứng sống động cho thấy, ngay từ những ngày đầu, tình đoàn kết của Cuba dành cho Việt Nam không chỉ dừng lại ở lời nói, tình cảm mà đã được hiện thực hóa bằng những hành động cụ thể, thiết thực và đầy ý nghĩa.

"Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình"

Câu nói bất hủ của Lãnh tụ Fidel Castro: "Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình" đã trở thành tuyên ngôn, là kim chỉ nam cho tình đoàn kết vô song mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba dành cho Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Câu nói ấy đã được chứng minh bằng vô vàn hành động hy sinh, cống hiến và sự ủng hộ vô tư, trong sáng. Dù bản thân còn muôn vàn khó khăn, bị bao vây cấm vận, Cuba vẫn chắt chiu, dành cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần.

Việt Nam, Cuba: Hai dân tộc, một mối tình- Ảnh 2.

Chân dung Lãnh tụ Fidel Castro do lãnh đạo cấp cao Cuba tặng Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

Một mốc son quan trọng của tình đoàn kết anh em được đánh dấu bằng chuyến thăm lịch sử của Chủ tịch Fidel Castro đến vùng giải phóng miền Nam Việt Nam vào tháng 9/1973. Ông trở thành vị nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên và duy nhất vượt qua vĩ tuyến 17 để đến với vùng đất vừa được giải phóng của tỉnh Quảng Trị, khi chiến tranh vẫn còn đang diễn ra vô cùng ác liệt. Hình ảnh Fidel, trong bộ quân phục màu olive, đứng trên cao điểm 241, phất cao lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã trở thành một biểu tượng bất tử của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tình đoàn kết quốc tế.

Trong chuyến thăm lịch sử ấy, Fidel đã đi thẳng từ sân bay Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, vượt sông Bến Hải, qua các địa danh còn hằn dấu tích bom đạn để đến với mảnh đất Quảng Trị kiên cường. Ông đã gặp gỡ, trò chuyện với những người lính, thăm hỏi những người dân vừa thoát khỏi sự kìm kẹp của kẻ thù. Khoảnh khắc ông dừng lại ở bờ Bắc sông Bến Hải, chứng kiến 3 thanh niên bị thương do bom bi, và không một chút do dự, ông đã chỉ thị cho các bác sĩ trong đoàn sơ cứu và đưa họ lên xe của mình để đến bệnh viện, đã cho thấy một tình cảm chân thành, một trái tim nhân hậu vĩ đại.

Chuyến thăm không chỉ là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với quân và dân Việt Nam, mà còn là một thông điệp mạnh mẽ gửi đến thế giới, khẳng định niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Ngay sau chuyến thăm, Fidel đã quyết định tặng Việt Nam 5 công trình kinh tế - xã hội quan trọng, bao gồm: Khách sạn Thắng Lợi, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba tại Đồng Hới, 10 trại bò giống tại Mộc Châu, trại gà giống tại Lương Mỹ, và đường cao tốc Xuân Mai - Sơn Tây. Những công trình này đến nay vẫn sừng sững như minh chứng cho tình cảm không bao giờ phai mờ của người đồng chí, người anh em Cuba vĩ đại.

Sự ủng hộ của Cuba còn lan tỏa trên mọi lĩnh vực. Những con tàu như Imias và El Jigue đã dũng cảm vượt qua vòng vây phong tỏa của đế quốc Mỹ, cập cảng Hải Phòng để mang hàng hóa, đường và những món quà của nhân dân Cuba đến với Việt Nam. Nhiều chuyên gia, kỹ sư, bác sĩ Cuba đã không quản ngại gian khổ, hiểm nguy sang Việt Nam công tác, kề vai sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong sản xuất và chiến đấu. Trong những năm tháng đó, phong trào đoàn kết với Việt Nam đã lan rộng khắp đất nước Cuba, từ các nhà máy, công trường, trường học đến những miền quê hẻo lánh, tất cả đều hướng về Việt Nam với một tình cảm đặc biệt.

Việt Nam, Cuba: Hai dân tộc, một mối tình- Ảnh 3.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Cuba Miguel Diaz Canel tham quan trưng bày ảnh về mối quan hệ Việt Nam - Cuba - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi

Sau ngày 30/4/1975, Việt Nam hoàn toàn thống nhất, nhưng đất nước lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn từ hậu quả nặng nề của chiến tranh và sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch. Cuba vẫn luôn ở bên cạnh, tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong công cuộc tái thiết đất nước.

Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Cuba bước vào "Thời kỳ đặc biệt" với những thử thách, khó khăn chồng chất về kinh tế - xã hội. Chính trong giai đoạn cam go này, tình cảm thủy chung, son sắt của Việt Nam tiếp tục được thể hiện một cách sâu sắc.

Đáp lại tình cảm to lớn mà nhân dân Cuba đã dành cho mình, Việt Nam đã chân thành chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của công cuộc đổi mới. Khi Cuba thiếu lương thực, nhân dân Việt Nam, với tinh thần "nhường cơm sẻ áo", đã phát động nhiều phong trào quyên góp gạo ủng hộ đất nước Cuba anh em. Những chuyến tàu chở đầy gạo nghĩa tình từ Việt Nam đã vượt nửa vòng trái đất đến với hòn đảo tự do, góp phần giúp Cuba vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều dự án hỗ trợ Cuba phát triển sản xuất lương thực và thủy sản tại chỗ, cử các chuyên gia nông nghiệp sang giúp bạn chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm. Trên các diễn đàn quốc tế, Việt Nam luôn là một trong những tiếng nói mạnh mẽ nhất, kiên định lên tiếng phản đối và yêu cầu chấm dứt chính sách bao vây, cấm vận phi lý chống lại Cuba.

Những hành động ấy không chỉ là sự đền ơn đáp nghĩa, mà còn xuất phát từ mệnh lệnh của trái tim, từ tình cảm đồng chí, anh em sâu nặng giữa hai dân tộc với bề dày truyền thống gắn bó, đoàn kết keo sơn. Nó khẳng định một chân lý: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù thuận lợi hay khó khăn, Việt Nam và Cuba vẫn luôn kề vai sát cánh, đoàn kết và ủng hộ lẫn nhau. Mối quan hệ đó đã được tôi luyện qua thử thách của thời gian và trở nên bền chặt hơn bao giờ hết.

Tương lai và tình hữu nghị vững bền

Bước sang thế kỷ XXI, mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, truyền thống đặc biệt Việt Nam-Cuba tiếp tục được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước kế thừa, gìn giữ, vun đắp và không ngừng phát triển. Các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên, tạo động lực mạnh mẽ cho sự hợp tác toàn diện.

Từ quan hệ chính trị, ngoại giao tin cậy, hai nước đã và đang mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học - công nghệ, y tế, giáo dục, nông nghiệp... Cuba, với thế mạnh về y tế và công nghệ sinh học, đã chia sẻ, hợp tác và chuyển giao cho Việt Nam nhiều thành tựu quan trọng. Công ty liên doanh Bio Việt Nam, chuyên sản xuất thuốc diệt chuột sinh học, là một ví dụ điển hình cho sự hợp tác hiệu quả này. Ngược lại, Việt Nam cũng tích cực chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ Cuba đảm bảo an ninh lương thực và thúc đẩy các dự án đầu tư tại Cuba.

Ngay khi đại dịch COVID-19 bùng phát, giữa lúc thuốc điều trị "quý hơn vàng", Cuba đã gửi tặng Việt Nam và cử chuyên gia y tế sang hỗ trợ. Chỉ hai ngày sau khi Bộ Quốc phòng Việt Nam gửi thư đề nghị giúp đỡ, Cuba đã trả lời sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam bằng tất cả những gì mình có. Đặc biệt, Cuba đã cung cấp cho Việt Nam 5 triệu liều vaccine Abdala và bày tỏ sẵn sàng chuyển giao công nghệ sản xuất. Với tinh thần "đồng cam cộng khổ," "no đói có nhau", Việt Nam cũng đã gửi tặng Cuba hàng chục nghìn tấn gạo và nhiều vật tư y tế.

Quan hệ đối ngoại nhân dân cũng ngày càng được củng cố và mở rộng. Hội Hữu nghị Việt Nam - Cuba và Hội Hữu nghị Cuba - Việt Nam hoạt động sôi nổi, hiệu quả, là cầu nối cho các hoạt động giao lưu văn hóa, trao đổi kinh nghiệm, góp phần tăng cường sự hiểu biết và tình cảm gắn bó giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ. Những sinh viên Việt Nam học tập tại Cuba và những người Cuba đã từng công tác, học tập tại Việt Nam chính là những "đại sứ nhân dân", những người gìn giữ và lan tỏa ngọn lửa hữu nghị cho các thế hệ mai sau.

Hướng tới kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1960-2025), chương trình vận động "65 năm nghĩa tình Việt Nam-Cuba" do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam phát động đã khơi dậy, bồi đắp biết bao tình cảm, ký ức tốt đẹp giữa hai dân tộc. Nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước với nghĩa tình sâu nặng với nhân dân Cuba đã sẵn sàng dốc sức, dốc lòng, tự nguyện đóng góp, ủng hộ tạo nên một phong trào vô cùng mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn, chương trình đã nhận được số tiền và số lượng lượt quyên góp vượt xa mục tiêu ban đầu. Kết quả ấy đã góp phần khẳng định: Cuba luôn có một vị trí đặc biệt trong trái tim mỗi người Việt Nam.

Chặng đường 65 năm lịch sử đã chứng minh một điều rằng, mối quan hệ Việt Nam - Cuba là một mối quan hệ mẫu mực, hiếm có trên thế giới. Đó là mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng lý tưởng cách mạng trong sáng, được thử thách qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh và những giai đoạn khó khăn nhất, được nuôi dưỡng và vun đắp bằng tinh thần đoàn kết, thủy chung son sắt, sự chân thành, sẻ chia, sự hy sinh cao cả và sự nỗ lực bền bỉ, cùng sát cánh bên nhau vượt qua những cung đường gian nan để đi đến một tương lai tốt đẹp cho hai dân tộc và cho thế giới.

Nhìn lại quá khứ, chúng ta vô cùng tự hào. Hướng tới tương lai, chúng ta tin tưởng rằng, với nền tảng vững chắc đã được các thế hệ đi trước gây dựng, mối quan hệ đoàn kết anh em, hợp tác toàn diện và tin cậy lẫn nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Cuba sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển, mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở hai khu vực và trên thế giới. Tình đồng chí, anh em Việt Nam - Cuba sẽ mãi là bản anh hùng ca bất diệt, vượt qua mọi khoảng cách địa lý và những biến động của thời cuộc, sáng mãi trong lịch sử quan hệ quốc tế.

Chu Văn Khánh