Bà Pinelopi Koujianou Goldberg, Chuyên gia kinh tế trưởng, Nhóm Ngân hàng Thế giới phát biểu tại Diễn đàn - Ảnh: VGP |
Là chuyên gia đầu tiên trình bày tham luận trong Phiên toàn thể, bà Pinelopi Koujianou Goldberg, Chuyên gia kinh tế trưởng, Nhóm Ngân hàng Thế giới chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam trong việc tiến lên trên chuỗi giá trị toàn cầu nhằm tăng năng suất.
Theo bà Goldberg, một chuỗi giá trị là tất cả các khâu, các bước trong kinh doanh để đưa sản phẩm, dịch vụ từ dây chuyền đến nhà kho, người dùng, xuyên biên giới. Các quốc gia có thể gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu theo nhiều cách khác nhau. Việt Nam đang tham gia chuỗi giá trị toàn cầu cả trong công đoạn trước và sau, nhưng mới ở mức hạn chế.
Bà Goldberg khuyến nghị, Việt Nam cần ưu tiên tăng tỷ trọng giá trị nội đia.
Để chuyển sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ tiên tiến trong chuỗi giá trị toàn cầu, mức độ mở cửa thương mại của nền kinh tế và kỹ năng người lao động là nhân tố quyết định. Bên cạnh đó, chống lại sự cám dỗ của các chính sách bảo hộ, tham gia sâu vào các hiệp định thương mại sẽ làm tăng trưởng chuỗi giá trị toàn cầu.
Bài học từ Malaysia
Chia sẻ kinh nghiệm vượt bẫy thu nhập trung bình với Việt Nam, ông K. Yogeevaran, nguyên Thứ trưởng Bộ Công nghiệp trồng trọt và Hàng hóa Malaysia, cho biết, Malaysia đã sai khi chỉ tập trung vào giáo dục đại học, mà lơ là đào tạo nghề. Đây cũng chính là vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải.
Dẫn câu chuyện Hàn Quốc chỉ mất 26 năm để nâng cấp nền kinh tế từ thu nhập thấp lên thu nhập cao, ông Malaysia K. Yogeevaran cho biết, Malaysia dù đã tăng trưởng nhanh nhưng vẫn chưa được như mong muốn.
“Chúng tôi đã mất 27 năm để đi từ một nền kinh tế thu nhập thấp lên thu nhập trung bình và mất 22 năm để đi từ một nền kinh tế có thu nhập trung bình lên thu nhập cao”, ông K. Yogeevaran nói.
Vấn đề của Malaysia, theo ông K. Yogeevaran, còn là tăng trưởng không đồng đều giữa các vùng miền, các khu vực khác nhau, phân bổ chưa công bằng, năng suất lao động cũng thấp, TFP giảm theo thời gian, chi phí sống tăng lên, dư địa tài khóa hạn hẹp…
“Mặc dù chúng tôi cũng đã tiếp nhận nhiều FDI, nhưng có giai đoạn phần lớn FDI cũng chỉ đầu tư vào công nghệ thấp, vào các ngành thâm dụng lao động”, ông K. Yogeevaran thừa nhận.
Một vấn đề nữa với Malaysia, như chia sẻ của ông K. Yogeevaran, là sự mất cân đối ở thị trường lao động, khi mà có tới 48% nhân lực là lao động có kỹ năng, trong khi nhu cầu của thị trường chỉ là 5%. Điều này cũng dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ tương đối cao, do đối tượng này thường được đào tạo bài bản ở bậc đại học.
“Chúng tôi đã sai khi thúc đẩy đào tạo nhiều vào bậc đại học mà lơ là đào tạo nghề. Tới đây, chúng tôi sẽ tập trung nhiều vào đào tạo nghề”, ông K. Yogeevaran thừa nhận.
Chia sẻ kinh nghiệm của Malaysia, ông K. Yogeevaran cũng cho biết, vấn đề của đất nước này cũng là “năng suất”, giống như Việt Nam. “Vấn đề năng suất phải được xử lý ở cả 3 cấp, bao gồm cấp độ can thiệp là quốc gia, ngành và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp phải đóng vai trò tiên phong và có vai trò quan trọng”, ông K. Yogeevaran nói.
“Để trở thành quốc gia có thu nhập cao, chúng tôi xác định, phải tăng cường vào vốn con người; chuyển đổi sang các ngành phức hợp và giá trị cao trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ cho chế tạo và chế biến; giải quyết chênh lệch thu nhập và bất cân đối vùng miền để phát triển bao trùm; tăng cường bền vững môi trường qua tăng trưởng xanh; cải cách thể chế và quản trị nhà nước; nâng cao năng suất ở cả 3 cấp độ can thiệp là quốc gia, ngành và doanh nghiệp; và đổi mới sáng tạo để hướng tới thịnh vượng”, ông K. Yogeevaran nói.
Kết luận bài phát biểu của mình, ông K. Yogeevaran nhấn mạnh, bài học rút ra là tăng trưởng dựa vào đầu vào sẽ không bền vững trong dài hạn, mà cần tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo; đổi mới sáng tạo cần được định hướng để tạo giá trị và lợi ích kinh tế; phải cải cách thể chế và quản trị để hình thành hệ sinh thái hỗ trợ và bảo đảm rằng, FDI sẽ đem lại lợi ích tối đa cho nền kinh tế trong nước.
Chuyển dịch Việt Nam lên tầm phát triển mới
Trình bày tham luận với chủ đề "Chuyển dịch Việt Nam lên tầm phát triển mới: Lộ trình và kinh nghiệm quốc tế", TS. Jan Rielaender, Trưởng Bộ phận Đánh giá quốc gia đa chiều (MDCR) của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng, các khu vực khác nhau ở Việt Nam có chênh lệch lớn về tốc độ phát triển và Việt Nam cần có giải pháp cụ thể để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng suất để khắc phục tình trạng này.
Giá trị GDP của Việt Nam đạt ở mức trung bình, nhưng Việt Nam đạt kết quả tốt về phát triển hạ tầng, nhà cửa, giáo dục và chăm sóc y tế.
Tuy nhiên, vấn đề việc làm hay ô nhiễm môi trường do tăng trưởng nhanh gây ra đang là thách thức đáng kể đối với nền kinh tế. Biến đổi khí hậu ngày càng trở thành vấn đề đáng lo ngại như hạn hán… ảnh hưởng tới tăng trưởng GDP. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải có kế hoạch phát triển gắn với giảm thiểu tác động môi trường, đặc biệt ở các thành phố lớn.
Về mặt thể chế, Việt Nam cần cải thiện tính minh bạch và khả đoán trong việc thực thi pháp luật, để doanh nghiệp nắm bắt thị trường vận hành ra sao và cho đúng theo quy định pháp luật.
OECD đang cố gắng xây dựng và cung cấp khung ưu tiên cho phía Việt Nam, trong đó đề cập đến việc tập trung liên kết các thành phần trong chuỗi giá trị, tăng cường kết nối giữa khu vực công - tư, ưu tiên cho đầu tư giáo dục, bảo đảm bền vững môi trường.
An Bình