Theo TS. Nguyễn Dũng Anh, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII chỉ rõ: "Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia".
Trong đó, Đảng ta xác định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn bó mật thiết với giữ vững các cân đối lớn đi đôi với bảo đảm an ninh kinh tế. Các cân đối lớn trở thành một trong những biện pháp để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Điều này là phù hợp với chuẩn mực của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Các cân đối lớn phản ánh trình độ, tiềm lực của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa rằng, khi các cân đối lớn không được bảo đảm, nguy cơ lệ thuộc hoặc bị tác động bởi nhân tố từ bên ngoài có thể sẽ xảy ra. Cho nên, việc coi các cân đối lớn là một nội hàm của biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được thể hiện trong việc nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là mối quan hệ biện chứng, có ý nghĩa bổ sung tạo tiền đề thúc đẩy lẫn nhau. Nền kinh tế nội lực mạnh sẽ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao sẽ tạo tiền đề để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là thể hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực với tranh thủ ngoại lực để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới.
Xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Mở rộng hội nhập, tăng cường chiều sâu của hội nhập, đồng thời đòi hỏi có các biện pháp phòng vệ, bảo vệ doanh nghiệp và thị trường là hai mặt của cùng một vấn đề. Thực tiễn cho thấy, không có quốc gia nào thực hiện hội nhập một cách chủ động mà thiếu cân nhắc hợp lý về một hệ thống phòng vệ thỏa đáng để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế đi đôi với xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ chính đáng cộng đồng doanh nghiệp, thị trường trong nước là phù hợp với xu thế chung của thế giới. Phù hợp với một nền kinh tế ở trình độ phát triển còn thấp như của Việt Nam, việc mở cửa, hội nhập đi đôi với xây dựng các biện pháp phòng vệ chính đáng, thích hợp là cần thiết, điều này phù hợp với các thể chế kinh tế quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ lãnh đạo quản lý, năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động trong môi trường quốc tế và tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của Việt Nam ngày càng được đặt ra cấp thiết.
TS. Nguyễn Dũng Anh khẳng định, trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, góp phần khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nhiều tổ chức quốc tế và chuyên gia cho rằng Việt Nam vẫn là "ngôi sao sáng" khi đánh giá về tình hình và triển vọng nền kinh tế Việt Nam, nhờ tác động tích cực của khoa học công nghệ dẫn dắt, dòng vốn FDI và nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam còn một số hạn chế, yếu kém như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; chưa phát huy được đầy đủ, hiệu quả các tiềm năng, lợi thế phát triển; hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vẫn chủ yếu đang ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị; tỉ lệ tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu chưa cao. Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực…
Thực hiện ba đột phá chiến lược còn chậm: Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn bất cập; thực thi pháp luật có nơi chưa nghiêm; nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chất lượng chưa cao.
Để xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, TS. Nguyễn Dung Anh cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện thể chế nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn để doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng lớn mạnh, trở thành nòng cốt của nền kinh tế đất nước.
Doanh nghiệp Việt Nam là lực lượng xung kích tạo ra của cải, vật chất, việc làm, đóng góp nguồn lực cho ngân sách, cũng là lực lượng chủ lực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới. Việc tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế cần được thực hiện khẩn trương, tích cực nhằm thúc đẩy sự gia tăng số lượng doanh nghiệp, đồng thời từng bước nâng cao trình độ, quy mô các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; có ngày càng nhiều hơn những doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp có khả năng dẫn dắt ngành, lĩnh vực, đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu.
Từng bước hoàn thiện các thể chế phòng vệ phù hợp với thể chế quốc tế để bảo vệ lợi ích doanh nghiệp, người dân Việt Nam và thị trường trong nước. Việc am hiểu một cách thấu đáo những khía cạnh của các quy định đa phương, song phương, từ đó điều chỉnh hệ thống thể chế phòng vệ trong nước phù hợp là thách thức lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp cũng như bản thân các cơ quan quản lý.
Vì vậy, cần tích cực triển khai xây dựng các thể chế phòng vệ phù hợp, là việc làm vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Do đó, vai trò "bà đỡ" của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp không thể thực hiện được một cách đơn giản theo ý muốn chủ quan, mà cần thông qua một hệ thống thể chế phòng vệ mạnh, có chất lượng phù hợp thông lệ thế giới để xây dựng nền kinh tế độc lập.
Xây dựng nền quản trị hiện đại, phục vụ doanh nghiệp, phục vụ nhân dân. Đổi mới tư duy quản lý, quản trị quốc gia từ kiểm soát, cho phép sang phục vụ thúc đẩy phát triển. Trong quản lý, điều hành những gì vướng mắc về mặt quy định của văn bản quy phạm pháp luật, được phép xử lý linh hoạt, năng động vì lợi ích chung, hoặc là có cơ chế thử nghiệm.
Đẩy nhanh xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới Chính phủ số. Lấy doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới.
Ngoài ra cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về môi trường quốc tế. Sự khó khăn nhiều mặt trong việc am hiểu môi trường quốc tế có thể khắc phục được khi chúng ta có được đội ngũ nhân lực tham gia hoạt động trong môi trường quốc tế đủ mạnh, đủ đức, đủ tài.
Muốn vậy, cần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho hội nhập quốc tế.
Nhật Anh