Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Vi phạm lĩnh vực hàng hải bị phạt tới 100 triệu đồng
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 142/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải.
Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải.
Cụ thể, áp dụng mức phạt cảnh cáo, hoặc phạt tiền thấp nhất là 500 nghìn đồng tới cao nhất là 100 triệu đồng đối với mỗi hành vi vi phạm trong lĩnh vực hàng hải. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng; đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Ngoài các hình thức xử phạt được quy định trên, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định.
Nghị định nêu rõ, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng đối với mỗi hành vi vi phạm sau: vi phạm quy định về dấu hiệu cảnh báo cho tàu cập cầu an toàn theo quy định; không bố trí người buộc, cởi dây cho tàu thuyền theo quy định; không thông báo kế hoạch điều độ tàu thuyền vào, rời cảng cho Cảng vụ hàng hải theo quy định; để các vật trên cầu cảng hoặc chiếm dụng không gian phía trên cầu cảng gây trở ngại cho tàu thuyền cập, rời cầu cảng hoặc gây trở ngại cho các hoạt động khác tại cảng.
Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với mỗi hành vi vi phạm: Sử dụng người lao động không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo quy định; không thông báo kịp thời cho Cảng vụ hàng hải về các sự cố, tai nạn có liên quan đến an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và ô nhiễm môi trường tại cảng theo quy định; không cung cấp cho Cảng vụ hàng hải số liệu độ sâu vùng nước trước cầu cảng định kỳ theo quy định; không thực hiện khảo sát định kỳ để công bố thông báo hàng hải về độ sâu vùng nước trước cầu cảng và các khu nước, vùng nước khác theo quy định; thiết bị chiếu sáng tại cầu cảng không hoạt động được hoặc hoạt động không đúng quy chuẩn kỹ thuật theo quy định.
Đối với các hành vi cho tàu thuyền vào cảng hoặc neo đậu tại vùng nước cảng biển khi chưa được phép của Cảng vụ hàng hải; tự ý bốc, dỡ hàng hóa khi tàu thuyền chưa hoàn thành thủ tục vào cảng theo quy định; hệ thống đệm chống va, bích buộc tàu của cầu cảng không đủ hoặc không bảo đảm an toàn cho tàu thuyền neo đậu; không có hoặc không làm thủ tục xác nhận hàng năm giấy chứng nhận phù hợp của cảng biển theo quy định hoặc không thực hiện đầy đủ Kế hoạch an ninh cảng biển đã được phê duyệt theo quy định; không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời, chính xác các thông tin an ninh hàng hải cho cơ quan có thẩm quyền; không tổ chức diễn tập hoặc không thực tập kết nối thông tin an ninh hàng hải theo quy định; không bố trí đủ cán bộ an ninh cảng biển theo quy định; bố trí cầu cảng, bến phao cho tàu thuyền vào, rời không bảo đảm thời gian theo kế hoạch điều động tàu thuyền của Cảng vụ hàng hải hoặc không bảo đảm các điều kiện theo quy định; không trang bị thiết bị chiếu sáng tại cầu cảng theo quy định bị phạt từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
Mức phạt tiền cao nhất tới 100 triệu đồng được áp dụng đối với các hành vi: Bên thuê lại cho thuê kết cấu hạ tầng bến cảng, cầu cảng được thuê; nổ mìn hoặc các vật liệu nổ khác trong phạm vi cảng biển, vùng nước cảng biển, luồng hàng hải khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; xếp, chứa các chất dễ cháy nổ, các chất nguy hại trái quy định có khả năng gây ăn mòn hoặc hư hỏng công trình hàng hải khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khai thác khoáng sản, nạo vét trái phép trên luồng hàng hải, phạm vi bảo vệ luồng hàng hải, vùng nước cảng biển; thải các chất thải làm hư hại, ảnh hưởng đến độ bền và tuổi thọ của công trình hàng hải; tàu thuyền nước ngoài tham gia vận tải nội địa hoặc thực hiện các hoạt động đặc thù chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định...
Mức phạt tiền của mỗi hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này là mức phạt áp dụng đối với cá nhân; trường hợp có cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Phê duyệt chủ trương đầu tư 2 Dự án điện
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư và một số cơ chế đặc thù đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án Đường dây 500 kV Quảng Trạch - Dốc Sỏi và Dự án đường dây 500 kV Dốc Sỏi - Pleiku 2.
2 Dự án trên là công trình năng lượng cấp đặc biệt, nhóm A do Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm chủ đầu tư, thực hiện từ năm 2017-2019.
Mục tiêu đầu tư xây dựng 2 Dự án để tăng cường năng lực truyền tải của lưới điện 500 kV liên kết các miền của hệ thống điện quốc gia, góp phần đảm bảo cung ứng điện cho miền Nam trong giai đoạn tới khi hệ thống điện miền Nam không đảm bảo cân đối cung - cầu nội vùng; tối ưu hóa sản xuất - truyền tải điện trong vận hành hệ thống điện quốc gia.
Dự án Đường dây 500 kV Quảng Trạch - Dốc Sỏi có tuyến đường dây đi qua địa bàn 5 tỉnh và 1 thành phố: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Ngãi với tổng mức đầu tư sơ bộ 6.758 tỷ đồng.
Dự án Đường dây 500 kV Dốc Sỏi - Pleiku 2 có tuyến đường dây đi qua địa bàn 3 tỉnh: Quảng Ngãi, Kon Tum và Gia Lai với tổng mức đầu tư sơ bộ 3.606 tỷ đồng.
Thay đổi thành viên BCĐ xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thay đổi thành viên Ban Chỉ đạo cấp Nhà nước về xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.
Theo Quyết định, ông Lê Tấn Dũng, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Phó Trưởng ban, thay ông Huỳnh Văn Tí.
Ban Chỉ đạo cấp Nhà nước về xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin có nhiệm vụ chỉ đạo, phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong việc điều tra, thu thập, cung cấp thông tin về liệt sĩ, hài cốt liệt sĩ, mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ; quản lý và khai thác các thông tin phục vụ cho việc xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin bằng các phương pháp thực chứng hoặc phương pháp giám định gen.
Bên cạnh đó, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do Thủ tướng Chính phủ giao liên quan đến việc xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.
Kết luận của Thủ tướng về nghỉ lễ, tết năm 2018
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về nghỉ lễ, tết năm 2018 của cán bộ, công chức, viên chức.
Ngày 5/12, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ về nghỉ lễ, tết năm 2018 của cán bộ, công chức, viên chức. Sau khi nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo, phát biểu của lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ý kiến của các Phó Thủ tướng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đồng ý với đề nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc nghỉ lễ, tết năm 2018.
Theo đó, Nghỉ Tết Âm lịch từ thứ Tư, ngày 14/2/2018 (ngày 29 tháng chạp năm Đinh Dậu) đến hết thứ Ba, ngày 20/2/2018;
Dịp lễ Quốc khánh: Nghỉ ngày Quốc khánh (2/9) và nghỉ bù vào ngày thứ Hai (3/9).
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan, đơn vị thực hiện lịch nghỉ trên lưu ý bố trí, sắp xếp các bộ phận làm việc hợp lý để giải quyết công việc liên tục, bảo đảm tốt công tác phục vụ tổ chức, nhân dân.
Các cơ quan, đơn vị không thực hiện nghỉ cố định thứ Bảy và Chủ Nhật hằng tuần, sẽ căn cứ vào chương trình, kế hoạch cụ thể của đơn vị để bố trí lịch nghỉ cho phù hợp.
Thủ tướng Chính phủ ủy quyền Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông báo việc thực hiện nghỉ lễ, tết năm 2018 như trên.
Phát triển bền vững ĐBSCL: Ưu tiên thủy sản, cây ăn trái, lúa
Văn phòng Chính phủ vừa ra Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thông báo nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể, trong đó về lĩnh vực tài nguyên môi trường, tiếp tục cập nhật, hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng tại Việt Nam đến năm 2100, công bố, công khai định kỳ làm cơ sở bổ sung, cập nhật chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch các ngành, lĩnh vực. Rà soát, hoàn thiện, lập quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch bảo vệ môi trường, quy hoạch khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ của đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, có chiến lược sử dụng tiết kiệm nước ngọt, chung sống với hạn, mặn; coi nước mặn như một nguồn tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế. Khẩn trương đề xuất sửa đổi chính sách đất đai, tạo thuận lợi cho tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn.
Nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long với sự tham gia đóng góp từ nhiều nguồn lực, đặc biệt ngoài vốn ngân sách. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực để triển khai các chương trình, dự án phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long đến thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi và phòng chống thiên tai, đẩy mạnh nghiên cứu, lựa chọn, tạo giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản sử dụng ít nước ngọt, thích nghi với điều kiện hạn, mặn; cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi sản xuất, giảm diện tích trồng lúa, đẩy mạnh phát triển mô hình canh tác xen canh lúa - cá, lúa - tôm để giảm sử dụng nước trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, thích ứng với tình trạng nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long theo hướng liên kết vùng, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Nghiên cứu chuyển đổi chiến lược, quy hoạch, cơ cấu phát triển nông nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển thủy sản - cây ăn trái - lúa thay cho lúa - thủy sản - cây ăn trái hiện nay; vùng trồng lúa phải đảm bảo sản xuất ăn chắc, chất lượng cao, sử dụng ít nước, ít phát thải khí nhà kính; vùng nuôi trồng thủy sản phải được thủy lợi hóa và xử lý tốt vấn đề môi trường; quản lý chặt chẽ vật tư nông nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị; khuyến khích liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng kinh tế giữa nông dân với doanh nghiệp, hợp tác xã. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tham gia quá trình chuyển đổi sản xuất, chế biến và cung cấp sản phẩm ra thị trường.
Quản lý chặt chẽ, khai thác hiệu quả vùng rừng ngập mặn, rừng tràm bảo đảm sinh kế cho người dân, bảo vệ diện tích rừng tự nhiên hiện có, đẩy mạnh phục hồi, phát triển rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển.
Quy hoạch thủy lợi là then chốt cho phát triển gắn liền với quy hoạch sản xuất nông nghiệp và là định hướng cho một số quy hoạch khác. Rà soát lại quy hoạch thủy lợi đến năm 2020, tầm nhìn năm 2050 để phù hợp với các thách thức đặt ra đối với đồng bằng sông Cửu Long, trong đó đặc biệt cần nghiên cứu, kiểm soát chặt chẽ việc đắp đê bao, bờ bao bảo vệ sản xuất, tránh các ảnh hưởng, tác động lớn đến tự nhiên; xây dựng đề án tổng thể để chống suy thoái, khôi phục rừng ngập mặn ven biển, phòng chống sạt lở bờ biển, bờ sông.
Xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phân bón giả
Tập trung thanh tra, kiểm tra, điều tra, xác minh làm rõ các vụ việc phức tạp, nổi cộm để chấn chỉnh, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc.
Đây là một trong các nội dung, biện pháp trong Kế hoạch tăng cường công tác phòng, chống buôn lậu, sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng của Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại hàng giả.
Cũng theo kế hoạch, sẽ thanh tra, kiểm tra, rà soát toàn diện trên phạm vi toàn quốc về công tác cấp phép, sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh; công tác kiểm nghiệm, kiểm định, thử nghiệm, công bố hợp quy, hợp chuẩn; việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm, tái kiểm theo thẩm quyền của các cơ quan, đơn vị chức năng đối với phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
Đồng thời, tổng kiểm tra, rà soát tất cả các doanh nghiệp, cơ sở, cá nhân sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; xác định những doanh nghiệp chấp hành đúng pháp luật, những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm; tổng hợp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm khắc phục những bất cập, sở hở và hoàn thiện cơ sở pháp lý quản lý nhà nước về phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
Thường xuyên cập nhật thông tin, tổ chức tuyên truyền để các doanh nghiệp, cơ sở, cá nhân nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, không sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh và không sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc.
Tổng hợp, phân tích, đánh giá đúng thực trạng việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; những khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để tham mưu về chủ trương, giải pháp phát triển bền vững thị trường phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong thời gian tới.
Kế hoạch cũng giao cụ thể nhiệm vụ của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương trong công tác phòng, chống buôn lậu, sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng./.