Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 85/2018/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô tại đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo đó, tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô của cán bộ lãnh đạo trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tổng cục trưởng và tương đương thực hiện theo Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô.
Nghị định quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô theo cấp bậc quân hàm. Cụ thể, sỹ quan có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng được sử dụng thường xuyên 1 xe ô tô trong thời gian công tác. Căn cứ tình hình thực tế tại thời điểm trang bị xe. Thủ tướng Chính phủ quyết định chủng loại, giá mua xe theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an.
Sỹ quan có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân được sử dụng thường xuyên 1 xe ô tô trong thời gian công tác với giá mua tối đa là 1, 1 tỷ đồng/xe.
Sỹ quan có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân được sử dụng thường xuyên 1 xe ô tô trong thời gian công tác với giá mua tối đa là 920 triệu đồng/xe.
Sỹ quan có cấp bậc quân hàm là Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân được sử dụng xe ô tô để đưa đón từ nơi ở đến nơi làm việc, đi công tác với giá mua tối đa là 820 triệu đồng/xe.
Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô chức danh tại doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an thực hiện theo Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô.
Trường hợp một người giữ nhiều chức danh lãnh đạo có tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô hoặc vừa có tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô theo chức danh lãnh đạo vừa có tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô theo cấp bậc quân hàm nêu trên thì được áp dụng tiêu chuẩn cao nhất. Khi người tiền nhiệm nghỉ hưu, chuyển công tác hoặc thôi giữ chức vụ mà xe ô tô đã trang bị chưa đủ điều kiện thay thế theo quy định thì người thay thế tiếp tục sử dụng, không trang bị mới cho đến khi đủ điều kiện thay thế xe ô tô theo quy định.
Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô phục vụ công tác chung
Nghị định cũng quy định cụ thể tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe tô tô phục vụ công tác chung. Cụ thể, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,7 trở lên hoặc cán bộ có hệ số lương từ 7,3 trở lên tại đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân mà không thuộc đối tượng sử dụng xe ô tô theo chức danh được sử dụng xe tô tô phục vụ công tác chung khi đi công tác (1).
Định mức sử dụng xe ô tô phục vụ công tác chung cho cán bộ nêu trên thực hiện theo quy định định mức sử dụng xe ô tô phục vụ công tác chung của đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thuộc Bộ Quốc phòng; định mức sử dụng xe ô tô phục vụ công tác chung của đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thuộc Bộ Công an. Số lượng xe ô tô trang bị cho từng cơ quan, đơn vị do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cho phù hợp nhưng không vượt quá số lượng xe ô tô quy định tại Nghị định này.
Trường hợp do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp, đặc biệt, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định việc bố trí xe ô tô phục vụ công tác chung cho các chức danh không thuộc phạm vi quy định tại (1) nêu trên khi đi công tác.
Nghị định cũng quy định cụ thể tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô chuyên dùng; xe ô tô phục vụ công tác chung của ban quản lý dự án; giá mua xe ô tô; thay thế xe ô tô tại đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân; sắp xếp lại, xử lý xe ô tô.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ 15/7/2018.
Ngưng hiệu lực quy định thủ tục điện tử đối với tàu thuyền theo Nghị định 58
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 84/2018/NĐ-CP ngưng hiệu lực thi hành đối với Điều 82, 83, 84, 85, 86 và điểm b khoản 2 Điều 124 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải về quản lý hoạt động hàng hải đến hết ngày 30/6/2018.
Nghị định cho phép tiếp tục thực hiện các thủ tục điện tử dành cho tàu thuyền nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, vào, rời cảng biển và hoạt động trong vùng biển Việt Nam thông qua Cơ chế một cửa quốc gia theo quy định tại Quyết định số 34/2016/QĐ-TTg ngày 23/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ quy định thủ tục điện tử đối với tàu thuyền vào, rời cảng biển, cảng thủy nội địa, cảng dầu khí ngoài khơi thông qua Cơ chế một cửa quốc gia đến hết ngày 30/6/2018.
Nghị định 84/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2017 đến hết ngày 30/6/2018.
Phê duyệt Đề án ổn định dân cư, phát triển KT-XH vùng tái định cư thủy điện Sơn La
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội vùng tái định cư thủy điện Sơn La.
Đề án trên được thực hiện từ năm 2018 - 2025, chia thành 2 giai đoạn (giai đoạn 1 từ năm 2018 - 2020; giai đoạn 2 từ năm 2021 - 2025).
Đề án áp dụng thực hiện cho 82 xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) có điểm tái định cư tập trung, xen ghép của 99 khu trên địa bàn các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La; trong đó: tỉnh Sơn La: 57 xã; tỉnh Điện Biên: 09 xã; tỉnh Lai Châu: 16 xã. Tổng số thôn, bản là 410 bản với 21.820 hộ tái định cư, trong đó hộ gốc là 20.340 và hộ phát sinh là 1.480 hộ và 222 thôn bản sở tại với 24.508 hộ bị ảnh hưởng.
Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân
Mục tiêu của Đề án nhằm tạo sự chuyển biến về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất nông nghiệp có năng suất, chất lượng cao, liên kết theo chuỗi giá trị hàng hóa; tăng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề ở nông thôn; cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân sau tái định cư Dự án thủy điện Sơn La trên địa bàn các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu một cách bền vững, bảo đảm ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư Dự án thủy điện Sơn La, không còn hộ có nguy cơ tái nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Cụ thể, đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2 lần năm 2014 và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 10%; đến năm 2025 thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 3 lần năm 2014 và không còn hộ nghèo.
Đến năm 2020, tỷ lệ dân số vùng tái định cư thủy điện Sơn La được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 90%, số hộ dân tại các khu, điểm tái định cư được sử dụng điện lưới quốc gia thường xuyên an toàn; đến năm 2025, tỷ lệ dân số vùng tái định cư thủy điện Sơn La được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 100%; phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa, xây dựng các vùng chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến vừa và nhỏ, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp đến năm 2020 còn 73%, đến năm 2025 còn 65%; đào tạo chuyển đổi nghề và việc làm cho 47.036 người, bình quân mỗi năm đào tạo được 5.880 người.
Đồng thời, nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các khu, điểm tái định cư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng tái định cư thủy điện Sơn La trên địa bàn các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu bảo đảm tiêu chí nông thôn mới.
Bố trí, sắp xếp ổn định đời sống, sản xuất cho 500 hộ dân tái định cư ven hồ thuộc huyện Quỳnh Nhai và huyện Mường La, tỉnh Sơn La chưa có điều kiện ổn định đời sống, phát triển sản xuất cho người dân sau tái định cư thủy điện Sơn La do thiếu đất sản xuất và ảnh hưởng bởi sạt lở đất, lũ ống, lũ quét.
Theo đó, nội dung đầu tư gồm: Hỗ trợ chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ khoán bảo vệ rừng phòng hộ và rừng sản xuất; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ đầu tư phát triển du lịch và thương mại và sửa chữa, nâng cấp, xây mới các công trình cơ sở hạ tầng tại các khu, điểm tái định cư và dân sở tại nhường đất bị ảnh hưởng...
Thành lập Viện Nông nghiệp Thanh Hóa
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thành lập Viện Nông nghiệp Thanh Hóa trực thuộc UBND tỉnh Thanh Hóa.
Viện Nông nghiệp Thanh Hóa được thành lập trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa (Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật giống cây trồng nông nghiệp Thanh Hóa; Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật chăn nuôi Thanh Hóa; Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lâm nghiệp Thanh Hóa; Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản; Đoàn Quy hoạch nông, lâm nghiệp Thanh Hóa; Ban quản lý Trung tâm phát triển nông thôn thuộc Chi cục Phát triển nông thôn); Trung tâm nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học Thanh Hóa trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thanh Hóa.
Viện Nông nghiệp Thanh Hóa là đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ, thực hiện chức năng nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, tư vấn về chiến lược phát triển và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Về cơ cấu tổ chức, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa có Viện trưởng và không quá 2 Phó Viện trưởng.
Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cho từ chức, nghỉ hưu và thực hiện các chế độ chính sách khác đối với Viện trưởng và Phó Viện trưởng do Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định theo quy định của pháp luật.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ gồm: Văn phòng; Phòng Kế hoạch, tổng hợp và hợp tác quốc tế; Phòng Quản lý khoa học; Phòng Phân tích và thí nghiệm.
Các đơn vị trực thuộc gồm: Trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm và dịch vụ giống cây trồng; Trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm và dịch vụ vật nuôi; Trung tâm tư vấn quy hoạch, thị trường và chiến lược phát triển nông nghiệp.
Văn phòng có Chánh Văn phòng và không quá 2 Phó Chánh Văn phòng; các phòng có Trưởng phòng và không quá 2 Phó trưởng phòng; các Trung tâm có Giám đốc và không quá 2 Phó Giám đốc.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng; Trưởng phòng, Phó trưởng phòng; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm thuộc Viện thực hiện theo quy định của pháp luật và quy định phân công, phân cấp quản lý cán bộ của UBND tỉnh Thanh Hóa.
Số lượng viên chức của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa nằm trong tổng số viên chức làm việc của UBND tỉnh Thanh Hóa được cấp có thẩm quyền giao, bảo đảm không làm tăng biên chế.
Viện Nông nghiệp Thanh Hóa hoạt động theo cơ chế tự chủ, bảo đảm chi thường xuyên từ năm 2021.
UBND tỉnh Thanh Hóa quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, số lượng viên chức và quy chế hoạt động của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa và các đơn vị trực thuộc Viện.
Chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các cơ quan chức năng chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trong thời gian qua, quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành địa phương đã có nhiều cố gắng, tập trung giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài đã được giải quyết, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần ổn định chính trị - xã hội và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn còn diễn biến phức tạp, còn tồn đọng nhiều vụ việc đông người, phức tạp, kéo dài chưa được giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng chưa dứt điểm. Gần đây có tình trạng công dân tập trung dài ngày ở các cơ quan Trung ương và đến khu vực nhà riêng các đồng chí lãnh đạo khiếu kiện, gây áp lực yêu cầu giải quyết, căng khẩu hiệu, biểu ngữ trên đường phố, gây mất trật tự công cộng; có hành vi chống người thi hành công vụ, bắt giữ người trái pháp luật. Nội dung các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài chủ yếu liên quan đến đất đai (chiếm trên 70%), trong đó tập trung vào vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, tranh chấp đất đai, việc chuyển đổi mô hình chợ truyền thống...
Xử lý triệt để sai phạm quản lý đất đai
Để hạn chế tình trạng trên, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan chức năng liên quan phải chấn chỉnh những tồn tại, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo, nhất là trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Thủ trưởng các cơ quan hành chính phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải trình, kiên quyết xử lý vi phạm và thông báo công khai trước nhân dân.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, xây dựng phát triển đô thị; chấn chỉnh xử lý triệt để những tồn tại, sai phạm trong công tác quản lý đất đai. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải công khai, minh bạch, đúng chính sách, pháp luật, bảo đảm cho người bị thu hồi đất có cuộc sống ổn định, bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, bảo đảm hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan đánh giá đầy đủ, sát thực tế việc thi hành Luật Đất đai, nhất là các bất cập là nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về giá đất, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất... để giải quyết căn cơ các vấn đề là nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất bị thu hồi.
Bộ Công Thương nghiên cứu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến việc chuyển đổi mô hình chợ truyền thống.
Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích công dân khởi kiện các quyết định hành chính và hành vi hành chính ra Tòa án nhân dân; yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan hành chính, công chức khi có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện phải thực hiện nghiêm túc Luật Tố tụng hành chính, tham gia phiên tòa, tranh tụng, đối thoại, thi hành các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật theo đúng quy định.
Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các cấp nghiêm túc thực hiện chế độ tiếp công dân định kỳ và đột xuất. Khi xảy ra vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, Chủ tịch UBND phải đề cao trách nhiệm, sâu sát, quyết liệt, trực tiếp đối thoại với người dân, có biện pháp chỉ đạo giải quyết kịp thời, không để phát sinh thành “điểm nóng” gây phức tạp về an ninh, trật tự. Khi người dân địa phương tập trung khiếu kiện đông người đến các cơ quan Trung ương, yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phải trực tiếp chỉ đạo, phân công người có đủ thẩm quyền phối hợp với Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành liên quan để tiếp dân, vận động, thuyết phục, có biện pháp để công dân về địa phương giải quyết, không để công dân khiếu kiện dài ngày ở các cơ quan Trung ương, nhất là vào thời gian diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Trường hợp người dân không về địa phương, yêu cầu lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố trực tiếp về Hà Nội đối thoại, đưa dân về địa phương giải quyết.
Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố lập Kế hoạch giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kế hoạch giải quyết phải xác định rõ trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành chức năng và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố; xác định lộ trình, thời gian giải quyết từng vụ việc cụ thể; coi kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cấp chính quyền và của người có thẩm quyền và trách nhiệm.
Việc giải quyết phải trên cơ sở chính sách, pháp luật, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân và giải quyết dứt điểm được vụ việc. Trong quá trình giải quyết phải xác định nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo; nguyên nhân người khiếu nại chưa đồng tình với biện pháp giải quyết của chính quyền, xem xét bản chất của vụ việc, tổ chức đối thoại công khai, làm rõ những nội dung có ý kiến khác nhau, trao đổi, thống nhất, tạo đồng thuận về hướng giải quyết vụ việc. Nếu giải quyết sai phải kiên quyết sửa chữa, tìm biện pháp để giải quyết dứt điểm. Nếu giải quyết đúng, có lý, có tình thì cần có các biện pháp giải thích, thuyết phục để người dân hiểu, chấp hành, công khai kết quả giải quyết trên các phương tiện thông tin đại chúng, nơi người khiếu nại cư trú và thông báo chấm dứt thụ lý giải quyết. Nếu người khiếu nại có hoàn cảnh thực sự khó khăn, cần xem xét, vận dụng chính sách xã hội để có biện pháp hỗ trợ ổn định cuộc sống, chấm dứt khiếu nại.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo tăng cường công tác thông tin, truyền thông về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, dư luận xã hội quan tâm để người dân hiểu đúng bản chất vụ việc, biện pháp giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Việc đưa tin phải khách quan, trung thực, không đưa tin một chiều, sai lệch nội dung, bản chất vụ việc khiếu nại, tố cáo gây tác động tiêu cực tới dư luận, để các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động.
Thủ tướng cũng đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực phối hợp với các cấp chính quyền trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam huy động đội ngũ luật sư tích cực tham gia tư vấn pháp luật cho người dân; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền trong quá trình giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo; chấn chỉnh, xử lý kịp thời một số luật sư có hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Phát triển nông thôn thích ứng với thiên tai
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo 6 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu về Dự án "Phát triển nông thôn thích ứng với thiên tai" tại 6 tỉnh nêu trên.
Thủ tướng Chính phủ đồng ý triển khai công tác chuẩn bị Dự án "Phát triển nông thôn thích ứng với thiên tai" tại 6 tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La.
Mục tiêu của dự án nhằm phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn qui mô nhỏ nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và tăng giá trị nông nghiệp theo cách bền vững góp phần phát triển nông thôn toàn diện trong khu vực. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư với các biện pháp thích ứng cải thiện vận hành, duy tu theo cách bền vững chống chịu với thời tiết, ứng phó với biến đổi khí hậu góp phần giảm nhẹ các tác động tiêu cực có thể xảy ra do thiên tai tại vùng nông thôn các tỉnh miền núi, vùng cao của dự án. Dự án tập trung vào lĩnh vực thủy lợi, chỉnh trị sông ngòi, kè chống sạt lở, đường giao thông.
Thời gian thực hiện dự án từ năm 2018-2023. Tổng mức đầu tư 2.903 tỷ đồng.
Đối với các tỉnh thực hiện dự án, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh hoàn thiện Đề xuất dự án, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tiến hành các thủ tục liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Đề xuất dự án để tiến hành xây dựng, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Báo cáo nghiên cứu khả thi theo quy định.
UBND các tỉnh tổ chức, thực hiện dự án và chịu trách nhiệm vay lại một phần vốn vay ODA Nhật Bản theo quy định hiện hành và cam kết trả nợ theo quy định; giao UBND tỉnh Lào Cai làm đầu mối cho UBND 6 tỉnh và thay mặt UBND 6 tỉnh chịu trách nhiệm ký kết dự án.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các tỉnh là chủ đầu tư, phải chịu trách nhiệm chuẩn bị đầu tư theo đúng quy định, làm rõ trách nhiệm của từng khâu, từng việc trong quá trình đầu tư, thực hiện dự án, tránh tình trạng kéo dài.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn, bảo đảm hoàn thành dự án theo tiến độ đề ra.
Quản lý kiến trúc khu vực xung quanh Trung tâm Hội nghị quốc gia
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến về việc ban hành Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc khu vực xung quanh Trung tâm Hội nghị quốc gia.
Cụ thể, Phó Thủ tướng giao UBND thành phố Hà Nội chủ trì, nghiên cứu, rà soát, tổ chức lập và ban hành Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc khu vực xung quanh Trung tâm Hội nghị Quốc gia sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng, bảo đảm theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị.
Bộ Xây dựng thực hiện việc chấm dứt hiệu lực đối với các quy định về quản lý quản lý quy hoạch kiến trúc khu vực xung quanh Trung tâm Hội nghị Quốc gia do Bộ Xây dựng ban hành trước đây./.