Tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2020, Chính phủ yêu cầu thời gian còn lại của năm 2020 các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện nghiêm túc, quyết liệt “mục tiêu kép” trên tinh thần ưu tiên bảo vệ sức khỏe của người dân; đồng thời thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, tạo tiền đề vững chắc phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
Cụ thể, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chủ động đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết, bảo đảm triển khai đồng bộ, hiệu quả kế hoạch 2021 ngay từ đầu năm trong bối dịch COVID-19 còn diễn biến khó lường. Thực hiện nghiêm Công điện số 1699/CĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện phòng, chống dịch COVID-19, trong đó tiếp tục thực hiện chiến lược kiểm soát chặt chẽ nguồn lây từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để, điều trị hiệu quả ở trong nước, thần tốc, quyết liệt hon nữa để truy vết, phát hiện và xử lý các ca lây nhiễm, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra bình thường, không hoang mang nhưng không được chủ quan. Tăng cường công tác quản lý giá cả, bình ổn giá, đảm bảo cung cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu có nhu cầu tiêu dùng cao vào dịp cuối năm; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; xử lý nghiêm tình trạng gian lận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, lợi dụng xuất xứ của Việt Nam để xuất khẩu sang nước thứ ba, không để ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và uy tín của nước ta.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng chủ động, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề do dịch COVID-19.
Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng
Chỉnh phủ yêu cầu Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; khai thác tốt các thị trường còn dư địa và các thị trường nước ta đã ký kết các FTA, nhất là CPTPP, EVFTA. Chủ động phổ biến thông tin rộng rãi về Hiệp định RCEP cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp thuộc ngành, lĩnh vực sản xuất xuất khẩu có cơ hội thuận lợi hoặc bị tác động. Chủ động xây dựng kịch bản, giải pháp về chính sách thương mại ứng phó với sự thay đổi chính sách của các đối tác lớn. Tiếp tục đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng nội địa bằng các biện pháp phù hợp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp và triển khai các giải pháp ứng phó, bảo vệ sản xuất, hạn chế thiệt hại do mưa lũ, rét đậm, rét hại, hạn hán, xâm nhập mặn có thể xảy ra; trồng, bảo vệ rừng, chỉ đạo công tác phòng chống cháy rừng. Tiếp tục thực hiện quyết liệt các biện pháp kiểm soát tốt dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, gia súc, gia cầm; phối hợp Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, đồng thời khai thác tốt thị trường trong nước. Chủ động có biện pháp phù hợp với các cam kết quốc tế để bảo vệ xuất khẩu các sản phẩm gỗ của Việt Nam. Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình, đề án cụ thể triển khai chủ trương trồng 1 tỷ cây xanh trong 5 năm tới.
Bảo đảm an toàn giao thông dịp Tết
Bộ Giao thông vận tải tập trung đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án, hạ tầng giao thông trọng điểm. Có giải pháp khắc phục và hạn chế tình hình sạt lở các tuyến đường giao thông, bảo đảm an toàn cho các phương tiện, tàu thuyền khi có bão lũ. Phối hợp với Bộ Công an có phương án bảo đảm an toàn giao thông dịp cuối năm, nhất là dịp Năm mới 2021, Tết Nguyên đán Tân Sửu sắp tới.
Bộ Y tế tiếp tục theo dõi sát tình hình dịch COVID-19; sớm có phương án về việc sản xuất, mua vắc-xin, báo cáo Thường trực Chính phủ xem xét, quyết định. Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vả các bộ, cơ quan liên quan sớm nghiên cứu, xây dựng các chính sách và mức hỗ trợ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 16 tuổi theo Luật Trẻ em, đặc biệt đối với các trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục có giải pháp hiệu quả thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tranh thủ cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Kiện toàn bộ máy chính quyền
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan đề xuất phương án khắc phục sự chồng chéo, giao thoa giữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ để hoàn thiện Đề án cơ cấu Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026; phối hợp với các cơ quan, địa phương chuẩn bị cho công tác bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp sắp tới và công tác kiện toàn bộ máy chính quyền tại các địa phương.
Bộ Công an chủ động đấu tranh, ngăn chặn âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động; bảo đảm tuyệt đối an toàn các sự kiện lớn của đất nước. Tích cực triển khai các giải pháp phòng, chống tội phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhất là các hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chiếm đoạt hàng cứu trợ, tín dụng đen, xuất nhập cảnh trái phép... Tăng cường công tác phòng, chống cháy nổ, bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Tại Nghị quyết, Chính phủ cũng quyết nghị cho phép các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đến ngày 30 tháng 9 năm 2020 giải ngân dưới 60% kế hoạch được giao đầu năm tiếp tục giải ngân số vốn còn lại trong phạm vi tổng số vốn năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ giao.
Chính phủ thống nhất đề nghị của Bộ Tài chính về việc hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu mà doanh nghiệp đưa một phần nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để thuê doanh nghiệp khác gia công hoặc thuê doanh nghiệp khác gia công một hoặc một số công đoạn của sản phẩm và đã nhận lại bán thành phẩm để tiếp tục sản xuất xuất khẩu hoặc nhận lại thành phẩm để xuất khẩu toàn bộ ra nước ngoài thì được miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại Khoản 7 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13.
Quy định mới về các trường hợp tinh giản biên chế
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 143/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP.
Nghị định 143/2020/NĐ-CP sửa đổi quy định về các trường hợp tinh giản biên chế đối với cán bộ, công chức, viên chức trong biên chế và cán bộ, công chức cấp xã hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp theo quy định của pháp luật (gọi chung là cán bộ, công chức, viên chức).
Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức thuộc đối tượng tinh giản biên chế nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc được cơ quan, đơn vị bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm nên không hoàn thành nhiệm vụ được giao nhưng không thể bố trí việc làm khác hoặc được cơ quan, đơn vị bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công chức có 01 năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp hoặc không hoàn thành nhiệm vụ trong năm trước liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, viên chức có 01 năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp hoặc không hoàn thành nhiệm vụ trong năm trước liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế mà trong từng năm đều có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh và của cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật hoặc năm trước liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh và của cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Ngoài các trường hợp trên, còn 2 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức thuộc đối tượng tinh giản biên chế vẫn thực hiện theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP là:
Dôi dư do rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước hoặc do đơn vị sự nghiệp công lập sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự để thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy và nhân sự.
Dôi dư do cơ cấu lại cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm khác.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 141/2020/NĐ-CP quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số, có hiệu lực thi hành từ ngày 23/1/2021.
Nghị định nêu rõ, người học là người dân tộc thiểu số thuộc đối tượng được hưởng chế độ cử tuyển gồm: Người dân tộc thiểu số rất ít người; người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa có hoặc có rất ít đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số.
Nghị định quy định rõ tiêu chuẩn chung của tuyển sinh. Theo đó, người học được cử tuyển phải thường trú từ 05 năm liên tục trở lên tính đến năm tuyển sinh tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi (hoặc có một trong hai bên là cha đẻ hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi), người trực tiếp nuôi dưỡng sống tại vùng này; đạt các tiêu chuẩn sơ tuyển đối với các ngành, nghề có yêu cầu sơ tuyển; không quá 22 tuổi tính đến năm tuyển sinh, có đủ sức khỏe theo quy định hiện hành.
Ngoài tiêu chuẩn chung quy định ở trên, người học được cử tuyển vào đại học phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể sau: 1- Tốt nghiệp trung học phổ thông; 2- Xếp loại hạnh kiểm các năm học của cấp học trung học phổ thông đạt loại tốt; 3- Xếp loại học lực năm cuối cấp đạt loại khá trở lên; 3- Có thời gian học đủ 03 năm học và tốt nghiệp trung học phổ thông tại trường thuộc địa bàn tuyển sinh theo quy định hoặc tại trường phổ thông dân tộc nội trú.
Ngoài tiêu chuẩn chung, người học được cử tuyển vào cao đẳng phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể sau: 1-Tốt nghiệp trung học phổ thông; 2- Xếp loại hạnh kiểm các năm học của cấp học trung học phổ thông đạt loại tốt; 3- Xếp loại học lực năm cuối cấp đạt loại trung bình trở lên; 4- Có thời gian học đủ 03 năm học và tốt nghiệp trung học phổ thông tại trường thuộc địa bàn tuyển sinh theo quy định hoặc tại trường phổ thông dân tộc nội trú.
Ngoài tiêu chuẩn chung, người học được cử tuyển vào trung cấp phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể sau: Tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông; xếp loại hạnh kiểm các năm học của cấp học cuối đạt loại khá trở lên; xếp loại học lực năm cuối cấp đạt loại trung bình trở lên; có thời gian học đủ 04 năm học và tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc học đủ 03 năm học và tốt nghiệp trung học phổ thông tại trường thuộc địa bàn tuyển sinh theo quy định hoặc tại trường phổ thông dân tộc nội trú.
Các trường hợp được ưu tiên trong cử tuyển
Nghị định nêu rõ người học đạt đủ các tiêu chuẩn tuyển sinh cử tuyển ở trên nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì được ưu tiên trong cử tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp theo thứ tự:
1- Con liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người có giấy chứng nhận người được hưởng chính sách như thương binh;
2- Học tại trường phổ thông dân tộc nội trú;
3- Trúng tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp tại năm xét đi học cử tuyển;
4- Đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi từ cấp huyện trở lên;
5- Trường hợp người học thuộc đối tượng được hưởng nhiều ưu tiên đồng thời thì chỉ được hưởng một ưu tiên cao nhất trong tuyển sinh cử tuyển.
Điều kiện sử dụng thiết bị bức xạ, vận hành thiết bị chiếu xạ
Chính phủ ban hành Nghị định 142/2020/NĐ-CP quy định về việc tiến hành công việc bức xạ và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử, trong đó quy định điều kiện sử dụng thiết bị bức xạ, vận hành thiết bị chiếu xạ.
Cụ thể, việc sử dụng thiết bị bức xạ, vận hành thiết bị chiếu xạ đảm bảo điều kiện:
1- Nhân lực:
Nhân viên bức xạ phải được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về sử dụng thiết bị bức xạ, vận hành thiết bị chiếu xạ; có Giấy chứng nhận đào tạo an toàn bức xạ phù hợp với công việc bức xạ và có Chứng chỉ nhân viên bức xạ theo quy định tại Điều 28 của Luật Năng lượng nguyên tử.
Có người phụ trách an toàn, trừ trường hợp cơ sở chỉ sử dụng thiết bị X-quang chụp răng sử dụng phim đặt sau huyệt ổ răng, thiết bị phát tia X trong phân tích huỳnh quang tia X và thiết bị soi bo mạch. Người phụ trách an toàn phải có Chứng chỉ nhân viên bức xạ và được bổ nhiệm bằng văn bản trong đó quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn theo khoản 2 Điều 27 của Luật Năng lượng nguyên tử.
Trường hợp vận hành thiết bị xạ trị từ xa: Có ít nhất 01 nhân viên được đào tạo về vật lý y khoa cho mỗi thiết bị.
Trường hợp vận hành thiết bị xạ trị áp sát: Có ít nhất 01 nhân viên được đào tạo về vật lý y khoa cho mỗi cơ sở bức xạ.
2- Bảo đảm an toàn, an ninh:
Trường hợp vận hành thiết bị chiếu xạ phải có thiết bị đo suất liều chiếu xạ xách tay; khóa liên động tại cửa ra vào phòng đặt thiết bị chiếu xạ; hệ thống cho phép dừng khẩn cấp quá trình chiếu xạ trong phòng đặt thiết bị chiếu xạ và phòng điều khiển; trường hợp vận hành thiết bị chiếu xạ công nghiệp còn phải có thêm thiết bị theo dõi suất liều chiếu xạ được lắp đặt cố định bên trong và bên ngoài phòng chiếu xạ; trường hợp vận hành thiết bị chiếu xạ, sử dụng thiết bị bức xạ trong y tế phải có: Nội quy an toàn bức xạ trong đó chỉ rõ các yêu cầu bảo vệ an toàn bức xạ cho nhân viên bức xạ, các nhân viên y tế khác, người bệnh, người chăm sóc, hỗ trợ người bệnh và công chúng; Giấy chứng nhận kiểm định thiết bị bức xạ còn hiệu lực;...
Cũng theo Nghị định này, hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép tiến hành công việc bức xạ phải đảm bảo: Thông tin trong hồ sơ phải chính xác. Các loại văn bằng, chứng chỉ hoặc các loại giấy tờ khác có quy định thời hạn phải còn hiệu lực ít nhất 45 ngày kể từ ngày hồ sơ được tiếp nhận; trường hợp bản sao không được công chứng, chứng thực hoặc được sao y từ bản gốc, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép có thể yêu cầu tổ chức, cá nhân xuất trình hoặc gửi bản chính để đối chiếu; trường hợp tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tiến hành đồng thời nhiều công việc bức xạ cùng một thời điểm các thành phần hồ sơ giống nhau chỉ cần nộp 01 bản cho tất cả các loại công việc bức xạ.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/2/2021.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, đặc biệt là các địa phương chịu ảnh hưởng nặng của bão, lũ vừa qua tiếp tục chỉ đạo, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp khắc phục hậu quả thiên tai, phục hồi sản xuất.
Cụ thể, tiếp tục khắc phục hậu quả thiên tai, hỗ trợ ổn định đời sống cho người dân, trong đó tập trung bảo đảm lương thực, hỗ trợ các hộ bị mất nhà cửa xây dựng lại nhà trước tết Nguyên đán Tân Sửu, khẩn trương khôi phục sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, khắc phục khẩn cấp các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu bị hư hỏng do bão, lũ, nhất là công trình y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi, đê điều.
Rà soát kịch bản biến đổi khí hậu, đánh giá toàn diện về tình hình thiên tai, rủi ro do thiên tai, tác động đến dân sinh, kinh tế xã hội; chủ động xây dựng các kịch bản, phương án chỉ đạo điều hành, ứng phó, khắc phục hậu quả đối với từng loại hình, từng tình huống thiên tai cụ thể có thể xảy ra trên địa bàn, nhất là bão, lũ, ngập lụt, sạt lở đất, lũ quét trên diện rộng.
Rà soát, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai và cứu hộ cứu nạn; nâng cao năng lực cơ quan phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao tính chuyên nghiệp, bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện thiên tai ngày càng phức tạp trước tác động của biến đổi khí hậu.
Nâng cao khả năng chống chịu trước thiên tai đối với nhà ở của người dân và công trình hạ tầng, nhất là công trình hạ tầng thiết yếu như công trình phòng chống thiên tai, y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi, đê điều, hồ đập, khu neo đậu tàu thuyền... Hướng dẫn người dân xây dựng nhà ở an toàn phòng, tránh bão, lũ; rà soát các chính sách xã hội, dân tộc và nhà ở, có chính sách phù hợp hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở an toàn; tiếp tục rà soát, chủ động di dời dân cư ra khỏi các khu vực nguy hiểm, nguy cơ mất an toàn cao, nhất là khu vực bị ảnh hưởng bởi mưa lũ vừa qua, khu vực có nguy cơ xảy ra sạt lở đất, lũ ống, lũ quét.
Kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai, nhất là công trình giao thông miền núi, hồ, đập thủy lợi, thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ. Quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên; tiếp tục trồng và tái sinh rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển; hạn chế tối đa tác động làm thay đổi trạng thái cân bằng tự nhiên của đồi, núi, sông, suối.
Tiếp tục rà soát hoàn thiện các quy định pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu ứng phó kịp thời, trong đó tập trung sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống thiên tai; điều chỉnh, bổ sung các quy định về quy trình thủ tục hỗ trợ khẩn cấp khắc phục hậu quả thiên tai (nhất là hỗ trợ gạo cứu đói, hỗ trợ giống để khôi phục sản xuất), vận động, tiếp nhận, phân phối các nguồn đóng góp tự nguyện cứu trợ sau thiên tai,...
Tăng cường công tác truyền thông, kết hợp hài hòa giữa phương thức truyền thống với truyền thông đa phương tiện để truyền tải thông tin chính xác, kịp thời về thiên tai, bão lũ tới người dân; nâng cao nhận thức, năng lực phòng, chống thiên tai cho cộng đồng, đẩy mạnh xây dựng lực lượng xung kích phòng chống thiên tai ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ” và giảm nhẹ rủi ro thiên tai bắt đầu từ cộng đồng.
Tăng cường nguồn lực cho phòng, chống thiên tai và cứu hộ cứu nạn; ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà nước cho các hoạt động phòng phòng chống thiên tai, trong đó tập trung xử lý các trọng điểm đê điều xung yếu, nhất là trên các tuyến đê từ cấp III đến cấp đặc biệt; sửa chữa, nâng cấp bảo đảm an toàn hồ đập thủy lợi; xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển khu vực xung yếu; chủ động di dời dân cư ra khỏi khu vực nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất gắn với sinh kế bền vững. Chủ động lồng ghép đầu tư công trình phòng chống thiên tai trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương.
Tập trung hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất nông nghiệp
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương tập trung chỉ đạo, hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất nông nghiệp. Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp, đẩy nhanh việc cấp giống cho các địa phương hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất; chỉ đạo, hướng dẫn địa phương chủ động sử dụng các nguồn lực hiện có để phục hồi sản xuất nông nghiệp kịp thời vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích ứng với thiên tai.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các Bộ hướng dẫn địa phương kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc (nếu có) trong hỗ trợ khắc phục thiệt hại về nhà ở; theo dõi chặt chẽ tình hình thiếu đói tại các địa phương bị ảnh hưởng nặng của bão, lũ, nhất là trong thời điểm tết Nguyên đán để kịp thời báo cáo, đề xuất hỗ trợ theo quy định.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, tập trung nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo; bổ sung nâng cao mật độ trạm quan trắc khí tượng thủy văn, nhất là quan trắc mưa, có giải pháp phù hợp huy động các nguồn lực ngoài ngân sách để bổ sung hệ thống trạm quan trắc. Khẩn trương xây dựng bản đồ phân vùng, cảnh báo rủi ro thiên tai, nhất là khu vực có nguy cơ sạt lở đất, lũ quét tại các khu dân cư,...
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chỉ đạo rà soát các doanh trại, điểm đóng quân để có phương án bảo đảm an toàn; rà soát năng lực cứu hộ, cứu nạn, lập Đề án tăng cường đầu tư, mua sắm trang thiết bị, phương tiện chuyên dụng, phù hợp (đặc biệt là máy bay trực thăng, tàu tìm kiếm cứu nạn chuyên dụng) để đáp ứng yêu cầu công tác tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trong các điều kiện địa hình phức tạp như vùng cửa sông, khu vực ngập sâu, sạt lở đất, lũ quét diện rộng, vùng sâu, vùng biển xa, hóa chất độc xạ,...
Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo, hỗ trợ các địa phương khắc phục sự cố sạt lở trên các tuyến giao thông chính; chủ động rà soát, có giải pháp hạn chế khắc phục tình trạng sạt lở, cản trở thoát lũ của công trình giao thông, đặc biệt là các tuyến quốc lộ, đường sắt, đường Hồ Chí Minh, các tuyến đường mở mới.
Kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng hồ đập thủy điện
Bộ Công Thương chỉ đạo công tác điều phối, cung ứng nguồn hàng, nhất là vật tư, hàng hóa phục vụ khắc phục thiên tai và hàng hóa thiết yếu khác, không để khan hiếm hàng, lợi dụng thiên tai tăng giá. Rà soát quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng hồ đập thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ; chỉ đạo các chủ hồ chứa thủy điện thực hiện nghiêm quy định tại Nghị định số 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước,...
Bộ Xây dựng nghiên cứu, hướng dẫn các mô hình nhà ở an toàn cho người dân vùng thường xuyên bị bão, lũ; tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh, bão, lụt khu vực miền Trung.
Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo để thay thế Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 15/4/2008 của Chính phủ. Rà soát, đề xuất điều chỉnh đơn giản hóa quy trình thủ tục hỗ trợ khẩn cấp từ nguồn dự trữ quốc gia nhằm bảo đảm tính kịp thời, đáp ứng yêu cầu khẩn cấp khi thiên tai. Ưu tiên bố trí các nguồn lực từ ngân sách cho khắc phục hậu quả thiên tai.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ưu tiên bố trí kinh phí ngay trong những năm đầu của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025 cho các tỉnh bị thiệt hại nặng để khắc phục hậu quả thiên tai; đồng thời huy động các nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài để bổ sung nguồn lực hỗ trợ khắc phục hậu quả, tái thiết sau bão lũ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng triển khai các biện pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục hậu quả bão lũ, cơ cấu lại nợ cho các hộ bị thiệt hại, tiếp tục cho vay vốn để tái sản xuất.
Các địa phương triển khai các biện pháp cụ thể
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố tiếp tục tập trung chỉ đạo, triển khai các biện pháp cụ thể để khắc phục hậu quả bão, lũ; ưu tiên bố trí nguồn lực của địa phương, các nguồn hỗ trợ, cứu trợ khác để hỗ trợ ổn định đời sống cho người dân và khắc phục hậu quả bão lũ; cân đối, cung cấp đủ các loại giống phù hợp hỗ trợ người dân phục hồi sản xuất nông nghiệp, đảm bảo kịp thời mùa vụ (trong đó tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu có phương án bảo đảm an toàn cho hồ Kẻ Gỗ, tăng cường khả năng thoát lũ, hạn chế ngập lụt vùng hạ du hồ Kẻ Gỗ; tỉnh Quảng Bình nghiên cứu phương án bảo đảm an toàn dân cư vùng ngập sâu tại các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch; tỉnh Quảng Trị khẩn trương rà soát, tái định cư cho các hộ bị sạt lở hoặc có nguy cơ sạt lở tại các huyện Hướng Hóa, Đăk rông, nghiên cứu phương án bảo đảm an toàn dân cư vùng ngập sâu Hải Lăng, khôi phục hạ tầng giao thông, thủy lợi bị hư hỏng; tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung khắc phục các khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển xung yếu để bảo đảm an toàn cho người dân; tỉnh Quảng Nam tập trung tái định cư cho người dân bị ảnh hưởng do sạt lở tại các xã Trà Leng, Trà Vân, huyện Nam Trà My và xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn, khôi phục hạ tầng giao thông vào các khu vực bị sạt lở; tỉnh Quảng Ngãi tập trung tái định cư cho các hộ dân bị sạt lở, sập đổ nhà tại huyện Sơn Tây và khắc phục cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi).
Ưu tiên bố trí nguồn lực của địa phương trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2021-2025, dự phòng ngân sách địa phương để đầu tư di dời dân cư khỏi khu vực nguy hiểm, sửa chữa, nâng cấp công trình phòng chống thiên tai bị hư hỏng, không đảm bảo an toàn, nhất là hồ đập, đê điều, trường học, trạm y tế, tuyến giao thông trọng yếu; tăng cường đầu tư cho công tác quản lý rủi ro, phòng ngừa thiên tai, chủ động trong ứng phó, cứu hộ cứu nạn, đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị chuyên dùng cho lực lượng làm công tác tham mưu phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh. Thực hiện nghiêm quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước, đảm bảo thông tin cho người dân vùng hạ du khi xả lũ. Thực hiện lồng ghép phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; kiểm tra, xử lý công trình làm gia tăng rủi ro thiên tai.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo chức năng nhiệm vụ được giao, chủ động triển khai các hành động, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, xây dựng kế hoạch, phối hợp, hướng dẫn, hỗ trợ địa phương thực hiện công tác khắc phục hậu quả, phục hồi tái thiết sau thiên tai đảm bảo kịp thời, hiệu quả.
Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục hướng dẫn, giám sát công tác vận động quyên góp ủng hộ nhân dân khắc phục thiệt hại do thiên tai, bão lũ, bảo đảm minh bạch, khách quan, công bằng, hiệu quả và đúng quy định của pháp luật.
* Vừa qua, bão, lũ liên tiếp xảy ra trên diện rộng tại khu vực miền Trung với cường độ rất mạnh, vượt mức lịch sử, gây thiệt hại hết sức nặng nề, đặc biệt là thiệt hại do sạt lở đất, lũ quét với 249 người chết và mất tích; trên 239.000 ngôi nhà bị tốc mái, 1.531 nhà bị đổ sập, nhiều cơ sở hạ tầng và các công trình dân sinh bị hư hỏng, sạt lở; ước tính thiệt hại về kinh tế trên 30.000 tỷ đồng.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có giải pháp chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng vùng Tây Nguyên.
Ngày 03/12/2020, Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) có phản ánh: Hiện số chủ rừng ở Tây Nguyên rất lớn nhưng hiệu quả quản lý đi xuống. Các chủ rừng lại là nơi che giấu thực trạng rừng bằng những con số sai sự thật. Doanh nghiệp được giao rừng bỏ bê trách nhiệm bảo vệ và báo cáo thiệt hại, chính quyền lảng tránh tình trạng xâm hại rừng dẫn đến các con số ảo tồn tại nhiều năm. Khi thiệt hại tích tụ quá lớn, thông tin vỡ lở thì sự đã rồi, dấu vết phá rừng không còn, nên các tỉnh có lý do bao biện.
Về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, đánh giá và xử lý; có giải pháp chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND thành phố Hải Phòng kiểm tra, xử lý cụ thể nội dung đơn phản ánh, kiến nghị của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch theo quy định của pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ nhận được Phiếu chuyển đơn của Đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng kèm theo đơn của một số doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại đảo Cát Bà, huyện Cát Hải phản ánh, kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc chính quyền thành phố Hải Phòng chỉ đạo Vườn quốc gia Cát Bà tháo dỡ các công trình du lịch của 06 doanh nghiệp. Về việc này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc có ý kiến chỉ đạo như sau:
Yêu cầu Ủy ban ban nhân dân thành phố Hải Phòng kiểm tra, xử lý cụ thể nội dung đơn phản ánh, kiến nghị của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch theo quy định của pháp luật; trả lời Đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan nghiên cứu thông tin Báo Đầu tư điện tử nêu về việc các nhà đầu tư đổ xô làm điện gió ngoài khơi.
Báo Đầu tư ngày 20 tháng 11 năm 2020 có phản ánh thông tin: Sau cuộc đua làm điện mặt trời trong các năm 2018 – 2019, nay các nhà đầu tư đổ xô làm điện gió ngoài khơi. Theo các chuyên gia, các dự án điện gió ngoài khơi không chỉ thuần túy là vấn đề năng lượng, mà còn liên quan tới chủ quyền quốc gia. Việc ràng buộc điều kiện với các nhà đầu tư nước ngoài ở các dự án này là rất cần thiết, tránh những hậu quả không lường.
Về thông tin nêu trên, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan nghiên cứu, đánh giá có giải pháp phù hợp.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giao các bộ, ngành, địa phương tích cực phối hợp với Bộ Công an tích hợp các dữ liệu cần thiết vào Thẻ Căn cước công dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và tiết kiệm cho bộ máy nhà nước.
Với tinh thần Chính phủ quản lý thống nhất, giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với bộ, ngành, địa phương để thu thập quản lý thông tin của người dân để phục vụ người dân.
Đồng thời, để đạt mục tiêu cấp 50 triệu Thẻ Căn cước công dân theo cam kết của Bộ Công an, đáp ứng việc triển khai Luật căn cước công dân, Luật cư trú (sửa đổi), Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an chủ trì, phối hợp Bộ Tư pháp, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện các thủ tục trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi để kịp thời thực hiện Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Dự án Sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân. Trường hợp vướng mắc, phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo xử lý.
Phó Thủ tướng giao Bộ Công an khẩn trương chuẩn bị các điều kiện về kỹ thuật và bộ máy cần thiết để duy trì, khai thác Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia bảo đảm an toàn, thuận tiện. Bộ Công an thực hiện theo thẩm quyền quy định đối với việc tổ chức xây dựng các trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam khẩn trương phối hợp cùng với Bộ Công an đồng bộ hóa dữ liệu và tích hợp thông tin vào Thẻ Căn cước công dân.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan xây dựng các hướng dẫn, cơ chế khuyến khích một số dịch vụ không phải do nhà nước cung cấp cũng có thể sử dụng Thẻ Căn cước công dân và dữ liệu tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để cung cấp dịch vụ.
Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính phủ tăng cường các giải pháp bảo mật đối với các thông tin về Thẻ Căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Được biết, trong thời gian quan, công an các đơn vị địa phương đã triển khai quyết liệt trên tất cả các mặt công tác đẩy nhanh tiến độ Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Dự án Sản xuất, cấp, quản lý Căn cước công dân; những kết quả đạt được trong xây dựng, triển khai 2 Dự án quan trọng, bám sát chương trình, kế hoạch, mục tiêu đã đề ra.
Tính đến ngày 24/9/2020, đã thu thập được 83.347.094/87.306.594 (đạt 95.46%) Phiếu DC01; cập nhật được 7.300.297 Phiếu DC02. Rà soát phân loại 182.033 trường hợp thôi Quốc tịch Việt Nam để công an các đơn vị địa phương tiến hành thống kê đẩy mạnh công tác làm sạch dữ liệu.
Riêng đối với Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Tây Ninh, tính đến ngày 28/9/2020, nhà thầu liên danh nhập liệu đã nhập được 75.251.581/78.617.953 Phiếu DC01 (đạt 95.71%)
Về Dự án Sản xuất, cấp và quản lý Căn cước công dân, hoàn thành công tác chuẩn bị, điều tra cơ bản số lượng công dân trong diện được cấp thẻ Căn cước công dân; đảm bảo cơ sở vật chất, cán bộ thực hiện. Triển khai, tiếp nhận hồ sơ, thực hiện quy trình cấp Căn cước công dân, thành lập các Tổ công tác, tiến hành phát tờ khai cho công dân, tiếp nhận hồ sơ, thu nhận vân tay, lăn tay, chụp ảnh, tra cứu xác minh thông tin…/.