Tạp chí Giao thông vận tải ngày 8/4/2017 có bài "Ai đỡ đầu để dự án Khu đô thị quốc tế Đa Phước nghênh ngang sai phạm", phản ánh trong thời gian qua, dư luận tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đang "nhức nhối" về việc dự án Khu đô thị Đa Phước (Khu đô thị The Sunrise Bay Đà Nẵng) thi công hút cát trái phép dưới biển Cửa Đại-Hội An vận chuyển về để xây dựng.
Về việc này, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu Bộ Công an khẩn trương điều tra, xác minh làm rõ nội dung phản ánh của Tạp chí Giao thông vận tải nêu trên, nếu phát hiện có vi phạm phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, kể cả xử lý hình sự về hành vi khai thác khoáng sản (cát) trái phép.
Quản lý sản xuất, kinh doanh muối
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 40/2017/NĐ-CP quy định về quản lý sản xuất, chế biến, kinh doanh muối.
Nghị định nêu rõ: Các tổ chức, cá nhân được tổ chức sản xuất, chế biến, kinh doanh muối theo quy định của Luật doanh nghiệp và quy định của pháp luật có liên quan.
Hệ thống các thiết bị, công trình hạ tầng kỹ thuật sản xuất, chế biến kinh doanh muối phải bảo đảm: 1- Không gây ô nhiễm vào sản phẩm, nhiễm mặn môi trường vùng lân cận và bảo đảm việc tiêu, thoát nước; 2- Có khoảng cách an toàn với khu vực ô nhiễm môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố theo quy định của pháp luật và các khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, bệnh viện; 3- Nước sử dụng để rửa, sơ chế, chế biến muối đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt; 4- Có giấy chứng nhận cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh muối đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định.
Sản phẩm muối lưu thông phải bảo đảm chất lượng
Các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh muối phải công bố hợp chuẩn, hợp quy chất lượng muối phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với sản phẩm muối thực phẩm, muối tinh, muối công nghiệp theo quy định.
Sản phẩm muối khi đưa ra lưu thông trên thị trường phải bảo đảm chất lượng theo công bố hợp chuẩn, hợp quy đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; có bao bì, nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa và an toàn thực phẩm (trừ muối công nghiệp).
Việc bổ sung tăng cường vi chất i-ốt, gia vị, phụ gia hoặc dược liệu vào sản phẩm muối dùng cho ăn trực tiếp, chế biến thực phẩm thực hiện theo quy định của pháp luật về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm và các quy định, hướng dẫn của Bộ Y tế.
Quảng cáo sản phẩm hàng hóa muối, muối tăng cường vi chất i-ốt thực hiện theo quy định của Luật quảng cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh muối phải thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với cơ sở sản xuất, người lao động trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ muối.
Quản lý xuất, nhập khẩu muối
Nghị định quy định rõ tổ chức, cá nhân thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu muối theo quy định của các văn bản thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Muối nhập khẩu phải bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của Việt Nam.
Các tổ chức, cá nhân nhập khẩu muối phải kiểm tra, đánh giá chất lượng muối; công bố hợp chuẩn, hợp quy và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng trước khi đưa muối vào sử dụng, lưu thông trên thị trường.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân xuất khẩu muối trên cơ sở đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng của nước nhập khẩu.
Quy định mới về nhiệm vụ, thành viên Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 437/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều tại Quyết định số 1673/QĐ-TTg ngày 8/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia.
Quyết định số 437/QĐ-TTg sửa đổi về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng. Cụ thể, Hội đồng có nhiệm vụ thẩm định, phê duyệt hoặc công nhận trữ lượng và tài nguyên khoáng sản trong báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản và kết quả thăm dò nâng cấp trữ lượng để làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý, lập dự án đầu tư khai thác mỏ và thiết kế khai thác, phát triển mỏ; xác nhận trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác để làm cơ sở cho tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Các nhiệm vụ khác của Hội đồng vẫn thực hiện theo Quyết định 1673/QĐ-TTg.
Ngoài ra, Quyết định số 437/QĐ-TTg cũng bổ sung thêm thành viên Hội đồng. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường làm Chủ tịch Hội đồng. Phó Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Các thành viên Hội đồng gồm: Thứ trưởng các Bộ Công Thương, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ; Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam; Chánh Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia. Ngoài ra còn có đại diện các cơ quan, tổ chức: Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Viện Khoa học địa chất và khoáng sản, Trường Đại học Mỏ-Địa chất.
Giảm phát thải khí nhà kính thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chương trình quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng (Chương trình REDD ) đến năm 2030.
Theo đó, đến năm 2020, góp phần giảm phát thải khí nhà kính thông qua các hoạt động REDD , nâng cao độ che phủ rừng toàn quốc lên 42% và diện tích các loại rừng đạt 14,4 triệu ha.
Giai đoạn 2021-2030, ổn định diện tích rừng tự nhiên đến 2030 ít nhất bằng diện tích đã đạt được tại năm 2020 và tăng độ che phủ rừng toàn quốc lên 45%, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia đến năm 2030 giảm 8% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) theo cam kết tại Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, mức đóng góp có thể tăng lên 25% khi nhận được hỗ trợ quốc tế.
Chương trình này được thực hiện trên phạm vi toàn quốc từ năm 2017-2030, ưu tiên vào các khu vực là điểm nóng về mất rừng và suy thoái rừng, vùng chịu tác động của biến đổi khí hậu và có tiềm năng trữ lượng carbon rừng.
Trong đó, nhằm giảm mất rừng và suy thoái rừng, sẽ tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng rừng và đất rừng bảo đảm mục tiêu 16,24 triệu ha đất sử dụng cho mục đích lâm nghiệp vào năm 2020; hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp bền vững và không gây mất rừng, suy thoái rừng; cải thiện quản trị rừng và cải thiện sinh kế cho người dân sống trong và gần rừng; tăng cường thực thi pháp luật lâm nghiệp.
Ngoài ra, Chương trình sẽ đánh giá và nhân rộng các mô hình kinh doanh rừng năng suất cao và rừng gỗ lớn; thí điểm, đánh giá và nhân rộng mô hình quản lý rừng tự nhiên bền vững; bảo vệ, bảo tồn và phục hồi rừng; cải thiện môi trường kinh tế và tài chính cho lâm nghiệp.
Đầu tư sân golf 36 lỗ tại Kim Bảng (Hà Nam)
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Sân golf Kim Bảng 36 lỗ tại thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam với diện tích 198,24 ha.
Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Hà Nam thực hiện thủ tục bổ sung vào điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh Hà Nam, trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt; chỉ đạo và giám sát nhà đầu tư thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, kinh doanh, đất đai, môi trường và cam kết của nhà đầu tư.
* Thủ tướng Chính phủ đồng ý điều chỉnh giảm quy mô sân golf GS Củ Chi từ 36 lỗ (200 ha) xuống còn 18 lỗ (90 ha).
Đối với phần diện tích 110 ha do giảm quy mô sân golf GS Củ Chi, UBND Thành phố Hồ Chí Minh quyết định việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo thẩm quyền và đúng quy định của pháp luật về đất đai. UBND Thành phố tiếp thu ý kiến của các Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tài chính để xem xét, quyết định việc sử dụng phần diện tích này theo đúng quy định của pháp luật.
Phấn đấu triệt xóa 5-10% tụ điểm ma túy mỗi năm
Toàn quốc phấn đấu không phát sinh tụ điểm phức tạp về ma túy, triệt xoá từ 5 - 10% số điểm, tụ điểm mỗi năm; mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) xây dựng được 1 mô hình điểm về phòng, chống ma túy tại xã, phường, thị trấn/năm...
Đó là mục tiêu Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Chương trình cũng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện và thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống ma túy; phát huy những thành tích, kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế tồn tại trong thời gian qua; kiềm chế sự gia tăng, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tác hại của tệ nạn ma túy đối với đời sống xã hội.
Chương trình phấn đấu tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức phòng, chống ma tuý với các hình thức, thời lượng và nội dung phù hợp tại 100% số xã, phường, thị trấn, trường học, khu công nghiệp, khu chế xuất.
Phấn đấu số vụ phạm tội sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy từ mức độ nghiêm trọng trở lên được phát hiện, xử lý tăng hơn 5% so với năm trước; không phát sinh tụ điểm phức tạp về ma túy, triệt xoá từ 5-10% số điểm, tụ điểm mỗi năm trên phạm vi toàn quốc; không quá 1 năm từ khi xảy ra, 100% hành vi phạm tội sản xuất trái phép chất ma túy ở trong nước được phát hiện, xử lý triệt để; giảm diện tích cây có chứa chất ma túy trồng trái phép so với năm trước và triệt phá 100% diện tích phát hiện được.
Đồn thời, phấn đấu hạn chế phát sinh người nghiện mới, mỗi năm hơn 1% số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý đủ tiêu chuẩn đưa ra khỏi diện và giảm hơn 1% số xã, phường, thị trấn có ma túy so với năm trước; đến năm 2020 có hơn 20% số xã, phường, thị trấn trọng điểm về ma túy giảm mức độ phức tạp so với năm 2015; mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) xây dựng được 1 mô hình điểm về phòng, chống ma túy tại xã, phường, thị trấn/năm.
Hàng năm, 80% số người nghiện và sử dụng ma túy có hồ sơ quản lý được tiếp cận các dịch vụ tư vấn, điều trị, cai nghiện; 90% cơ sở cai nghiện đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện về cai nghiện ma túy.
Để đạt được những mục tiêu trên, Chương trình sẽ thực thiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tệ nạn ma túy; nắm tình hình, tổ chức đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm ma túy, chú trọng đấu tranh ngăn chặn ma túy thẩm lậu vào nước ta và triệt xóa các tụ điểm, điểm phức tạp về ma túy trong nước.
Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp về ma túy, không để thất thoát tiền chất, các dược phẩm có chứa chất ma túy và chất hướng thần sử dụng sai mục đích; chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý triệt để những hành vi liên quan đến trồng cây có chứa chất ma túy và sản xuất trái phép ma túy trong nước, nhất là ma túy tổng hợp.
Tổ chức quản lý chặt chẽ người nghiện; thực hiện có hiệu quả việc rà soát, thống kê, phân loại người nghiện ma túy; tiếp tục đổi mới, mở rộng các hình thức, biện pháp dự phòng nghiện ma túy, cai nghiện và giảm tác hại cho người nghiện ma túy; hỗ trợ, thực hiện có hiệu quả công tác quản lý sau cai tại cộng đồng, phòng ngừa tái nghiện.
Đồng thời, tăng cường khả năng chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện và mở rộng các hình thức, biện pháp xã hội phòng, chống ma túy; huy động đa dạng các nguồn lực hợp pháp tham gia phòng, chống ma túy.
Xây dựng Nhà Văn hóa Lao động tại 2 tỉnh
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Nhà Văn hóa Lao động tại 2 tỉnh: Quảng Ngãi, An Giang.
Theo đó, đầu tư xây dựng mới nhà văn hóa tại 2 tỉnh nêu trên để tạo cơ sở vật chất của tổ chức công đoàn địa phương, nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần cho công nhân viên chức lao động sau giờ làm việc, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, nơi tổ chức học tập, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước và giới thiệu pháp luật cho công nhân lao động.
Cụ thể, Dự án Nhà Văn hóa Lao động tỉnh Quảng Ngãi đầu tư xây dựng nhà thi đấu đa năng và các phòng chức năng tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi với tổng mức đầu tư là 40 tỷ đồng.
Còn Dự án Nhà Văn hóa Lao động tỉnh An Giang đầu tư xây dựng khối nhà cao 4 tầng, tổng diện tích sàn xây dựng 5.740 m2 tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang với tổng mức đầu tư 60 tỷ đồng.
Cả 2 dự án trên sẽ được thực hiện từ năm 2018-2020.
Hoạt động của BCĐ đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, HTX
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vừa ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo này.
Quy chế này quy định về trách nhiệm, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được thành lập theo Quyết định 352/QĐ-TTg ngày 22/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Cụ thể, Ban Chỉ đạo có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về các chủ trương, chính sách và giải pháp chiến lược nhằm đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Bên cạnh đó, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các quy định của pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đã được phê duyệt.
Đồng thời, giúp Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, cơ quan trung ương và các địa phương trong việc xây dựng, hoàn thiện và hướng dẫn cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát, đánh giá, sơ kết, tổng kết, khen thưởng trong quá trình thực hiện các chương trình đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Ban Chỉ đạo làm việc theo nguyên tắc đề cao trách nhiệm của các thành viên Ban Chỉ đạo trên cơ sở trao đổi, bàn bạc dân chủ, tập thể và thực hiện theo kết luận của Trưởng Ban Chỉ đạo. Ban Chỉ đạo làm việc thông qua các phiên họp định kỳ 6 tháng một lần hoặc đột xuất theo quyết định của Trưởng Ban; thông qua lấy ý kiến các thành viên Ban Chỉ đạo bằng văn bản.
Văn phòng đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là đơn vị giúp việc cho Ban Chỉ đạo và Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Các cơ quan có lãnh đạo là Ủy viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm cử cán bộ tham gia Văn phòng đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Giải quyết chế độ cho lực lượng lao động tiền trạm kinh tế mới
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ về chế độ, chính sách đối với lực lượng lao động tiền trạm kinh tế mới ở các tỉnh phía Nam thời kỳ 1976-1980.
Xét đề nghị của UBND tỉnh Thái Bình về giải quyết chế độ, chính sách đối với lực lượng lao động tiền trạm kinh tế mới làm nhiệm vụ của tỉnh Thái Bình thời kỳ 1976-1980 không còn giấy tờ; Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Thái Bình chỉ đạo giải quyết đối với những trường hợp lao động đi tiền trạm kinh tế mới của tỉnh Thái Bình thời kỳ 1976-1980 đủ điều kiện hồ sơ theo quy định bảo đảm đúng đối tượng và chế độ.
UBND tỉnh Thái Bình tổng hợp, đánh giá việc triển khai thực hiện chế độ đối với lao động đi tiền trạm kinh tế mới của tỉnh Thái Bình thời kỳ 1976-1980 và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong năm 2017.
Cơ chế tài chính đối với Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ về cơ chế quản lý tài chính đặc thù của Công ty TNHH một thành viên Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại Công văn số 2087/VPCP-NN ngày 9/3/2017 của Văn phòng Chính phủ về việc miễn, giảm tiền thuê đất của Công ty TNHH một thành viên Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương.
Phó Thủ tướng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan ban hành định mức kinh tế-kỹ thuật đối với sản phẩm, dịch vụ công ích của Công ty; xác định nội dung các trường hợp được loại trừ khi đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và xây dựng quỹ tiền lương đối với doanh nghiệp khi tham gia thực hiện nhiệm vụ công ích phù hợp với quy định hiện hành.
Căn cứ quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản doanh nghiệp, ban hành Quy chế tài chính đối với Công ty theo thẩm quyền; trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, thống nhất với các Bộ liên quan để đề xuất phương án, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi ban hành Quy chế.
Đưa hồ sơ Ba Bể-Na Hang vào Danh mục Hồ sơ di sản thế giới
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa có ý kiến chỉ đạo về việc gửi Báo cáo tóm tắt Hồ sơ "Khu Di sản thiên nhiên Ba Bể - Na Hang tới Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đề nghị đưa vào Danh mục dự kiến xây dựng Hồ sơ di sản thế giới.
Cụ thể, Phó Thủ tướng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam gửi Báo cáo tóm tắt Hồ sơ "Khu Di sản thiên nhiên Ba Bể-Na Hang" tới UNESCO đề nghị đưa vào Danh mục dự kiến xây dựng Hồ sơ Di sản thế giới; hướng dẫn UBND tỉnh Tuyên Quang và UBND tỉnh Bắc Kạn lập hồ sơ khoa học trình Thủ tướng Chính phủ cho phép đệ trình UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới.
Phó Thủ tướng giao UBND tỉnh Tuyên Quang chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Bắc Kạn và các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai lập hồ sơ "Khu Di sản thiên nhiên Ba Bể - Na Hang" theo quy định tại Hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản thế giới 1972 và pháp luật về di sản văn hóa.
Giải quyết dứt điểm bất cập trong điều chuyển tuyến vận tải tại Hà Nội
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến chỉ đạo về việc điều chuyển tuyến vận tải hành khách trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải quyết dứt điểm kiến nghị của doanh nghiệp.
Trên cơ sở báo cáo của Bộ Giao thông vận tải giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp vận tải về việc điều chuyển tuyến vận tải hành khách trên địa bàn thành phố Hà Nội và kiến nghị của một số doanh nghiệp vận tải, Phó Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội trực tiếp chỉ đạo giải quyết dứt điểm, hiệu quả các bất cập, tồn tại trong việc điều chuyển các tuyến vận tải trên địa bàn Thành phố nhằm đáp ứng yêu cầu đi lại thuận lợi cho người dân.
Đồng thời giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp bảo đảm công khai, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, chống lợi ích nhóm, chống ùn tắc giao thông và bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả giải quyết trong tháng 4/2017.
Gỡ vướng trong triển khai Nghị định 67 về chính sách hỗ trợ thủy sản
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến chỉ đạo giải quyết vướng mắc trong triển khai Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.
Xét đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về vướng mắc trong triển khai Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Tài chính nghiên cứu ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nếu đúng, hướng dẫn ngay việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm theo Nghị định, không để tàu cá được đóng mới, nâng cấp theo Nghị định không ra khơi được vì vướng mắc về bảo hiểm.
Phó Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện ký kết mới các hợp đồng tín dụng và giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
Lựa chọn nhà thầu tư vấn điều chỉnh Quy hoạch KTXH tỉnh Hà Tĩnh
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đồng ý về nguyên tắc cho phép UBND tỉnh Hà Tĩnh áp dụng quy định tại Điều 26 Luật Đấu thầu năm 2013 để lựa chọn nhà thầu tư vấn rà soát, cập nhật Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Tĩnh.
Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Hà Tĩnh chỉ đạo việc thực hiện lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt theo đúng quy định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình, đồng thời phải bảo đảm các yêu cầu việc rà soát, cập nhật Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Tĩnh được triển khai thực hiện theo đúng tiến độ đã được phê duyệt.
Thực hiện việc trình, thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu, các nội dung trong đấu thầu (bao gồm cả yêu cầu của gói thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu) theo đúng quy định pháp luật về đấu thầu hiện hành.
Lập và phê duyệt dự toán kinh phí rà soát, cập nhật Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh trước khi đàm phán, thương thảo và ký kết hợp đồng với nhà thầu; vốn cho gói thầu phải được bố trí theo tiến độ thực hiện.
Nhà thầu được chọn phải đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm để thực hiện dịch vụ tư vấn bảo đảm chất lượng của báo cáo Quy hoạch được lập ra và theo đúng tiến độ, yêu cầu đồng thời không để xảy ra thất thoát, lãng phí trong quá trình thực hiện./.