In bài viết

ĐHQGHN ưu tiên phát triển Nhóm nghiên cứu mạnh

(Chinhphu.vn) – Đây là mô hình được Đại học Quốc gia Hà Nội đi tiên phong thực hiện từ 4-5 năm trở lại đây và dự kiến sẽ đẩy mạnh phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu trong thời gian tới.

18/05/2014 10:43
Giám đốc ĐHQG Hà Nội Phùng Xuân Nhạ trao tặng Bằng khen cho 16 nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG Hà Nội năm 2014. Ảnh: VGP/Nguyệt Hà
Nhóm nghiên cứu mạnh là tập thể các nhà khoa học được tập hợp theo hướng chuyên môn, hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo đạt hiệu quả tốt, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, tiếp cận các tiêu chí của đại học nghiên cứu tiên tiến.

Nhóm nghiên cứu mạnh sẽ do một giáo sư đầu ngành chủ trì, tất cả các thành viên còn lại sẽ nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của người chủ trì này. Ưu điểm của nhóm nghiên cứu mạnh so với các nhóm, cá nhân nghiên cứu thông thường là sẽ phát huy được sức mạnh trí tuệ tập thể dưới sự dẫn dắt thống nhất của một người có trình độ năng lực cao nhất.

Nhận thức được tầm quan trọng của nhóm nghiên cứu đối với việc nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các trường đại học nghiên cứu, từ những năm đầu thành lập, ĐHQGHN đã quan tâm đến việc xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu.

Đây là mô hình ĐHQGHN đi tiên phong thực hiện từ 4-5 năm trở lại đây và dự kiến sẽ đẩy mạnh phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu trong thời gian tới.

Mục tiêu của ĐHQG Hà Nội khi xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh là nhằm tăng cường tiềm lực khoa học-công nghệ (KHCN) cho một số nhóm nghiên cứu để có đủ khả năng triển khai các nghiên cứu đỉnh cao và xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc; tạo động lực gia tăng các giá trị KHCN, các yếu tố cạnh tranh cả trên phương diện quốc gia và quốc tế; thúc đẩy sự phát triển ĐHQGHN và các đơn vị theo định hướng nghiên cứu.

Tại Hội nghị Xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh tổ chức ngày 17/5 tại Hà Nội, GS. Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQGHN, cho biết: Sau 4-5 năm, đến nay mô hình nhóm nghiên cứu mạnh của ĐHQGHN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và kinh tế mũi nhọn, khoa học tự nhiên và y dược, công nghệ kỹ thuật và khoa học liên ngành.

Tính đến năm 2014, ĐHQGHN đã hình thành được hệ thống trên 80 nhóm nghiên cứu mạnh ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, có 16 nhóm được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN năm 2014.

"Kết quả của các nhóm nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào việc đưa ĐHQGHN nâng cao thứ bậc trong các bảng xếp hạng quốc tế", GS Đức nhấn mạnh.

Để phát triển hơn nữa các nhóm nghiên cứu mạnh trong thời gian tới, GS Đức khẳng định, ĐHQG Hà Nội sẽ tiếp tục đầu tư cả số lượng và chất lượng cho các nhóm nghiên cứu.

Hằng năm, ĐHQG Hà Nội sẽ tổ chức xem xét các đề cử để cấp bằng khen và công nhận. Trước mắt, trường sẽ thiết lập nhóm SWG16 đối với 16 nhóm nghiên cứu mạnh năm 2014, xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển thành các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc; đặt hàng để phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ chủ lực, đặc biệt là các sản phẩm khoa học công nghệ quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

ĐHQGHN cũng lưu ý phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh cấp đơn vị và nhóm nghiên cứu tiềm năng, nhất là các nhóm tiềm năng do các nhà khoa học trẻ gây dựng...

Giám đốc ĐHQG Hà Nội Phùng Xuân Nhạ khẳng định, thời gian tới, ĐHQG Hà Nội sẽ ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh "ra tấm ra món" để có được các kết quả khoa học đỉnh cao và sản phẩm công nghệ đột phá.

Trong khuôn khổ của Hội nghị, Giám đốc ĐHQG Hà Nội Phùng Xuân Nhạ đã trao tặng Bằng khen cho 16 nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG Hà Nội năm 2014.

Theo bản công bố xếp hạng năm 2014 của tổ chức QS (Quacquarelli Symond), Vương quốc Anh, ĐHQGHN đã vươn lên vị trí 161-170 của châu Á và giữ vị trí số 1 của Việt Nam. Ngoài ĐHQGHN, Việt Nam còn có 2 trường đại học khác xuất hiện trong Bảng xếp hạng này là ĐHQG TPHCM ở vị trí 191-200 và Trường ĐH Bách khoa Hà Nội vị trí 251-300.

QS xếp hạng thường niên về thứ hạng các trường ĐH trên thế giới chủ yếu dựa theo theo 5 tiêu chí: Ý kiến đánh giá của các học giả; ý kiến đánh giá của các nhà tuyển dụng; tỉ lệ giảng viên/sinh viên; số bài báo quốc tế trong hệ thống Scopus; tỷ lệ giảng viên, sinh viên quốc tế đến giảng dạy và học tập…

Nguyệt Hà