In bài viết

Những lưu ý từ CPI tháng 7

(Chinhphu.vn) - Để thực hiện mục tiêu “kép” (lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn), thời gian tới vẫn phải lo kiềm chế lạm phát, nhưng cũng cần chuyển sang lo cho tăng trưởng .

24/07/2013 18:21

Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2013 tăng 0,27% so với tháng trước.

CPI 7 THÁNG ĐẦU NĂM TRONG 10  NĂM QUA (%). Nguồn số liệu: TCTK 

Nếu tính sau 1 năm theo thông lệ quốc tế, thì tháng 7/2013 so với tháng 7/2012, CPI tăng 7,29%, cũng chỉ cao hơn một chút so với các con số tương ứng của các tháng trước và vẫn chưa vượt qua mức 7,5%. Nếu tính bình quân kỳ này so với cùng kỳ năm trước (theo Tổng cục Thống kê), thì CPI của 7 tháng tăng 6,81%, thấp hơn của các kỳ 5 tháng, 4 tháng, 3 tháng, 2 tháng...

Cần lo cho tăng trưởng

Theo đó, dù tháng 7 có tăng cao so với mấy tháng trước thì CPI 7 tháng đầu năm nay cũng thuộc loại thấp. Sự lo lắng theo dự đoán của một số chuyên gia từ cuối năm 2012 về chu kỳ “một năm tăng thấp, hai năm tăng cao” của CPI sẽ lặp lại, thì nay có khả năng không xảy ra, tạo điều kiện để yên tâm hơn với việc chuyển sang lo cho tăng trưởng.

Phải “lo cho tăng trưởng” vì nhiều lẽ. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Trong điều kiện hiện nay, lo cho tăng trưởng còn để ngăn chặn nguy cơ trì trệ, thậm chí là nguy cơ suy giảm tăng trưởng kinh tế. Lo cho tăng trưởng cũng đồng nghĩa với việc “cứu doanh nghiệp”, hỗ trợ doanh nhân- lực lượng nòng cốt  của kinh tế thị trường, của mở cửa, hội nhập.

Lo cho tăng trưởng cùng với việc giảm tính gia công của nền kinh tế sẽ góp phần hạn chế thực trạng mất cân đối giữa sản xuất GDP với tích luỹ, tiêu dùng cuối cùng, giữa đầu tư với tích luỹ trong nước (tiết kiệm, giảm mất cân đối cung cầu, vừa giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá ... đều là những yếu tố của lạm phát

Lo cho tăng trưởng cũng đồng nghĩa với việc lo công ăn việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp và thiếu việc làm- một nội dung đầu tiên, quan trọng nhất và lan toả nhất của lĩnh vực xã hội, đồng thời cũng là  động lực, là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng sẽ giúp cho giải quyết công ăn việc làm, bởi số người đến tuổi lao động  hàng năm vẫn còn tới hàng triệu người, bởi số lao động đang làm việc hàng năm vẫn còn tăng tới 2,75%. Tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán, tăng tổng cầu để tác động trở lại đối với tăng trưởng- một yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu hiện nay.

Không lơ là với lạm phát

Lo nhiều hơn cho tăng trưởng, nhưng chưa thể chủ quan và lơ là với lạm phát cũng vì nhiều lý do.

CPI tăng thấp chủ yếu do giá lương thực giảm (7 tháng giảm 2,52%); giá thực phẩm chỉ tăng cao vào 2 tháng đầu năm, nhưng đã giảm 5 tháng liền và chưa có dấu hiệu phục hồi. Nếu không tính lương thực, thực phẩm, thì tốc độ tăng giá các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng còn lại vẫn ở mức 2 chữ số. Khi cánh  kéo giá cả giữa lương thực, thực phẩm với hàng công nghiệp, dịch vụ nếu tiếp tục “doãng” ra sẽ gây bất lợi, gây thiệt hại “kép” cho nông dân. Nếu giá lương thực, thực phẩm tăng trở lại sẽ làm cho lạm phát cao lên.

Việc thắt chặt chính sách tài khoá, tiền tệ, đầu tư công sẽ có hiệu ứng phụ đối với tăng trưởng kinh tế và tiêu dùng. Để khắc phục các hiệu ứng phụ, chính sách tiền tệ- tài khoá sẽ chuyển từ thắt chặt sang nới lỏng để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường. Đây cũng là yếu tố để lạm phát cao trở lại. Vì vậy, việc nới lỏng chính sách tài khoá, tiền tệ cần chú ý một số điểm sau đây.

Thứ nhất là “liều lượng” nới lỏng, để tránh chuyển từ cực đoan này (thắt chặt quá mức hoặc thắt chặt dồn vào đầu năm), sang cực đoan khác (nới lỏng quá mức hoặc nới lỏng dồn vào cuối năm). Thứ hai là đầu năm thì chắt chặt cả tài khoá, cả tiền tệ, còn cuối năm thì nới lỏng cả tài khoá, cả tiền tệ. Làm như vậy thì năm nay lạm phát thấp, sang năm lại lạm phát cao. Nếu không chú ý đến 2 điểm trên sẽ dẫn đến vòng xoáy “tăng trưởng- lạm phát- thắt chặt- suy giảm- nới lỏng- lạm phát”, dẫn đến chu kỳ không ổn định, năm cao, năm thấp như đã từng xảy ra.

Điểm chú ý thứ ba là vừa giảm lãi suất đầu ra (sẽ tăng tiền từ ngân hàng ra lưu thông), vừa giảm lãi suất huy động (sẽ giảm lượng tiền từ lưu thông vào ngân hàng), tất yếu sẽ làm cho lạm phát cao trở lại, ngoài mục tiêu và sự kiểm soát. Thứ tư là chuyển từ chỗ ổn định tỷ giá trong thời gian tương đối dài, chuyển từ phương thức điều chỉnh theo kiểu “trườn bò” để kiềm chế lạm phát (tránh làm tăng chi phí đẩy, tránh nhập khẩu lạm phát và làm khuếch đại lạm phát ở trong nước), nay có thể nới tỷ giá để kiềm chế nhập siêu (khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu) sang điều hành giật cục. Thứ năm là khi lạm phát thấp, tăng trưởng trì trệ, thì dễ chạy theo tăng trưởng nóng, mà tăng trưởng  nóng thì vừa không bền vững, vừa gây ra tái lạm phát cao. Thứ sáu là tác động cộng hưởng của các giải pháp nới lỏng trên, mà tác động cộng hưởng bao giờ cũng lớn hơn nhiều việc cộng các tác động riêng lẻ. Điểm chú ý thứ bảy là sự tác động của tâm lý lạm phát- tuy là yếu tố phi kinh tế, nhưng trong nhiều trường hợp còn lớn hơn cả các yếu tố kinh tế khác.

Khi CPI tăng thấp, một số ngành, doanh nghiệp độc quyền dễ đề nghị tăng giá, nếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành ở Trung ương, giữa Trung ương với địa phương, nếu không cẩn trọng về liều lượng, về thời điểm, sẽ dễ làm cho lạm phát cao trở lại. Mặt khác, tình trạng “té nước theo giá” cũng dễ diễn ra và lặp lại tình trạng trước đây.

Trong khi nguyên nhân sâu xa, yếu tố tiềm ẩn của lạm phát (hiệu quả đầu tư, năng suất lao động) chưa có sự cải thiện quan trọng, trong khi còn ít sử dụng biện pháp thị trường mà dễ dùng biện pháp hành chính, ngắn hạn, thì lạm phát lúc cao, lúc thấp đã xảy ra và rất dễ  lặp lại. Đây là sự cảnh báo cần thiết.

Minh Ngọc