Quản lý chặt chẽ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam
Chính phủ quy định quản lý chặt chẽ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam, bảo đảm an toàn, an ninh và bảo mật theo quy định của pháp luật trong việc quản lý dữ liệu.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 121/2017/NĐ-CP quy định xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam.
Nghị định này quy định về xây dựng, thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng (gọi chung là xây dựng, quản lý, sử dụng) cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam.
5 nguyên tắc xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu
Theo đó, việc xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
1- Tuân thủ Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự, Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
2- Mọi thông tin liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được thu thập, cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác, khách quan, khoa học và quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo đúng quy định của pháp luật.
3- Khai thác, sử dụng đúng mục đích, bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được giữ bí mật theo quy định của pháp luật.
4- Việc xây dựng, khai thác, sử dụng thông tin liên quan đến người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, phục vụ công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5- Quản lý chặt chẽ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam, bảo đảm an toàn, an ninh và bảo mật theo quy định của pháp luật trong việc quản lý dữ liệu; tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước; bảo đảm sự tương thích, thông suốt an toàn giữa các hệ thống thông tin.
Nghiêm cấm hành vi sửa chữa làm sai lệch thông tin, tài liệu
Nghị định quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam gồm: 1- Cố tình làm sai lệch thông tin, cung cấp thông tin sai lệch; 2- Tự ý lập, tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch thông tin, tài liệu; 3- Cố tình sử dụng sai mục đích kết quả thu thập, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam xâm phạm quyền tự do, danh dự, đời tư và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân và nhà nước theo quy định của pháp luật; 4- Chiếm đoạt, làm hỏng, mất tài liệu, mua bán, chuyển giao, tiêu hủy trái phép thông tin, tài liệu; 5- Truy cập trái phép, thay đổi, giả mạo, sao chép, tiết lộ, gửi, hủy trái phép tài liệu lưu trữ điện tử, tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm làm rối loạn hoặc hủy hoại thông tin và cơ sở dữ liệu.
Chính phủ quy định cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam bao gồm: Hệ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Công an nhân dân do Bộ Công an quản lý và Hệ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân do Bộ Quốc phòng quản lý.
Nghị định quy định các cơ quan tham gia xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam được quyền khai thác dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi quản lý của cơ quan mình. Việc khai thác cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam ngoài phạm vi quản lý phải được cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam có thẩm quyền phê duyệt; nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử phải được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý bằng văn bản.
Trường hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có yêu cầu tra cứu, cung cấp thông tin, tài liệu lưu trữ về người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam thì phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và Luật lưu trữ; nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử phải được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý bằng văn bản.
Chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, tạm giam
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 120/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Nghị định này quy định chi tiết về chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế (chế độ) đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm chăm sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ; việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài.
Về định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Nghị định quy định định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam gồm: 17 kg gạo tẻ loại trung bình, 0,5 kg đường loại trung bình, 15 kg rau, 0,7 kg thịt, 0,8 kg cá, 01 kg muối, 0,75 lít nước chấm, 0,1 kg bột ngọt và chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than, 45 kw/h điện, 3 m3 nước để đảm bảo phục vụ ăn, uống và sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam ốm đau, bệnh tật, thương tích do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định theo chỉ định của cơ sở y tế điều trị, nhưng không quá 02 lần so với tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng định mức ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam khác và được ăn tăng thêm 30% định lượng về thịt, cá. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sinh con được thanh toán viện phí và bồi dưỡng bằng hiện vật trị giá tương đương 30 kg gạo tẻ loại trung bình.
Ngoài tiêu chuẩn ăn quy định ở trên, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quà, tiền gửi lưu ký để ăn thêm nhưng không quá 03 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Nghị định cũng quy định định mức ăn đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài thực hiện như quy định đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng theo điều ước quốc tế đó; trường hợp vì lý do đối ngoại khác sẽ do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định.
Chế độ mặc
Về chế độ mặc và tư trang, Nghị định quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quần, áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân, nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn theo tiêu chuẩn mỗi người gồm: 1 chiếu, 1 màn cá nhân, 1 đôi dép, 2 bộ quần áo dài, 1 áo ấm mùa đông và 1 chăn (các cơ sở giam giữ từ thành phố Đà Nẵng trở vào dùng chăn sợi, từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra dùng chăn bông loại không quá 2 kg).
Người bị tạm giữ được cấp 1 bàn chải đánh răng, kem đánh răng loại thường không quá 20g, 1 khăn rửa mặt.
Người bị tạm giam được cấp 1 bàn chải đánh răng, kem đánh răng loại thường không quá 100g dùng trong 2 tháng, 1 khăn rửa mặt dùng trong 04 tháng, mỗi tháng được cấp 0,3 kg xà phòng giặt.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ giá trị tương đương 2 kg gạo tẻ loại trung bình/1 tháng.
Cơ sở giam giữ cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam mượn quần áo theo mẫu thống nhất, áo kiểu bludong dài tay, quần dài có chun, không đóng số, màu xanh lam.
Bên cạnh đó, Nghị định quy định tiền thuốc chữa bệnh thông thường cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam được cấp tương đương 2 kg gạo tẻ loại trung bình/1 người/1 tháng.
Ngân hàng CSXH không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ người nghèo
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện tín dụng chính sách xã hội giai đoạn 2002 - 2017.
Thông báo nêu rõ: Qua 15 năm thực hiện tín dụng chính sách xã hội, đã có trên 31,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội, với doanh số cho vay đạt 433.245 tỷ đồng; góp phần quan trọng vào việc giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho gần 3,4 triệu lao động, xây dựng trên 9,9 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, gần 105 nghìn căn nhà cho hộ gia đình vượt lũ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gần 528 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách, trên 11 nghìn căn nhà phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung; trên 112 nghìn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi xuất khẩu lao động; trên 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập,...
Định hướng phát triển tín dụng chính sách xã hội trong thời gian tới, Ngân hàng Chính sách xã hội cần tiếp tục phát triển theo hướng ổn định, bền vững, hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới; không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, đẩy mạnh áp dụng công nghệ hiện đại, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ nhằm tạo thuận lợi nhất cho người nghèo và các đối tượng chính sách trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội. Đội ngũ cán bộ làm tín dụng chính sách nhất thiết phải gần dân, sát dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người vay vốn.
Các Bộ, ngành, địa phương tích cực, chủ động thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội và Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị; kịp thời chủ động xem xét, giải quyết các đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo điều kiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội phát triển ổn định và bền vững.
Các Bộ, ngành chủ động nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường nguồn lực, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tín dụng chính sách xã hội. Cụ thể, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao có các giải pháp tăng cường nguồn lực cho Ngân hàng Chính sách xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách: Bố trí cấp đủ vốn điều lệ theo qui định, vốn đầu tư trung hạn, vốn ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội, vốn vay dài hạn, lãi suất thấp, vốn trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh… để đảm bảo nguồn vốn cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách.
Các Bộ, ngành, Ngân hàng Chính sách xã hội thường xuyên nghiên cứu kiến nghị từ các địa phương và tình hình thực tế để kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh chính sách tín dụng, đối tượng, mức cho vay… đảm bảo phù hợp với thực tế, khả năng của ngân sách Nhà nước, đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn tín dụng của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Chung tay tạo lập nguồn vốn cho người nghèo
Để thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, Thủ tướng Chính phủ đề nghị các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức chính trị-xã hội, hội, hiệp hội, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước ủy thác vốn, đóng góp vốn tự nguyện không hoàn lại thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội để chung tay tạo lập nguồn vốn cho người nghèo và các đối tượng chính sách vay vốn ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo lập đời sống.
Các cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, vị trí của tín dụng chính sách xã hội trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội của địa phương một cách bền vững, trong đó tiếp tục quan tâm bố trí vốn ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn, đặc biệt là những địa phương chưa bố trí vốn ủy thác tương xứng với tiềm năng kinh tế của địa phương.
Bên cạnh đó, tích cực hỗ trợ về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội; thường xuyên rà soát, thống kê, xác nhận đúng các đối tượng thuộc diện được thụ hưởng tín dụng chính sách, tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn kịp thời; chỉ đạo thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; định hướng sản xuất cây trồng, vật nuôi giúp người nghèo và các đối tượng chính sách sử dụng vốn vay hiệu quả, thoát nghèo bền vững.
Các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt hơn nữa những công việc đã được Ngân hàng Chính sách xã hội ủy thác, bảo đảm việc cho vay đúng chính sách, đúng đối tượng; giúp người nghèo và các đối tượng chính sách sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, cải thiện được đời sống và có nguồn trả nợ.
Các Bộ, ngành, Ngân hàng Chính sách xã hội nghiên cứu, có giải pháp tín dụng chú trọng hỗ trợ khởi nghiệp, nhất là đối với phụ nữ và thanh niên ở khu vực nông thôn, hỗ trợ hình thành chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất - tiêu thụ, ứng dụng khoa học, công nghệ, cải thiện năng lực sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.
Ngân hàng Chính sách xã hội phát huy những thành công, kinh nghiệm đã đạt được, tiếp tục đồng hành, nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của người dân; không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay, thu nợ, bảo đảm giảm thiểu rủi ro; chú trọng đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ, phát huy tốt vai trò nhận ủy thác của các tổ chức chính trị - xã hội.
Làm rõ phản ánh "Vĩnh Phúc: Đốn rừng Thông trồng Su Su"
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu UBND tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, làm rõ những vấn đề báo Pháp luật Việt Nam phản ánh qua bài viết: "Vĩnh Phúc: Đốn rừng Thông trồng Su Su, một vụ phá rừng "khôn khéo"?".
Trước đó, báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày 31/10/2017 có bài: "Vĩnh Phúc: Đốn rừng Thông trồng Su Su, một vụ phá rừng "khôn khéo"?".
Theo phản ánh, chỉ trong một thời gian ngắn, gần 8 ha rừng phòng hộ thuộc dự án 327 tại thị trấn Tam Đảo bỗng chốc biến thành những vườn su su xanh mướt. Vì sao? Những cây thông được trồng cách đây hơn 10 năm đã biến mất đi đâu?
Hỏi ra mới biết, những vườn su su mà các hộ dân thuộc thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo đang trồng nằm trên phần đất thuộc dự án rừng 327 nhưng bị đốn hạ và chết từ hơn 10 năm nay.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, làm rõ những vấn đề báo Pháp luật Việt Nam nêu tại bài báo trên; xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật và trả lời báo Pháp luật Việt Nam.
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về thoái vốn tại Công ty cổ phần Đầu tư Tháp Truyền hình Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ đồng ý Đài Truyền hình Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước thoái vốn tại Công ty cổ phần Đầu tư Tháp Truyền hình Việt Nam, bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật, công khai, minh bạch, hiệu quả, không để thất thoát vốn nhà nước.
Đài Truyền hình Việt Nam trao đổi với các đối tác, đề xuất cụ thể tỷ lệ thoái vốn tại Công ty cổ phần Đầu tư Tháp Truyền hình Việt Nam, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu chủ đầu tư nghiên cứu, triển khai dự án Tháp Truyền hình Việt Nam thực hiện các cơ chế, chính sách, pháp luật và các thủ tục về đất đai có liên quan theo đúng quy định
Kéo dài thời gian hoàn thành bán cổ phần lần đầu VTVTcab
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về kéo dài thời gian hoàn thành bán cổ phần lần đầu và không điều chỉnh giá trị sổ sách khi cổ phần hóa Công ty TNHH MTV Truyền hình cáp Việt Nam (VTVcab).
Thủ tướng Chính phủ đồng ý không điều chỉnh sổ sách kế toán theo kết quả công bố giá trị doanh nghiệp đối với VTVcab. Kết quả công bố giá trị doanh nghiệp của Đài Truyền hình Việt Nam làm cơ sở xác định giá khởi điểm thực hiện đấu giá bán cổ phần lần đầu của VTVcab.
Thủ tướng Chính phủ cũng đồng ý gia hạn thời gian hoàn thành bán cổ phần lần đầu đối với VTVcab chậm nhất đến ngày 30/6/2018; Đài Truyền hình Việt Nam không phải điều chỉnh lại giá trị doanh nghiệp của VTVcab tại thời điểm 31/12/2015 đã được Đài công bố.
Đài Truyền hình Việt Nam có trách nhiệm hoàn thành cổ phần hóa VTVcab theo đúng quy định; cập nhật biến động vốn, tài sản (nếu có), cáo bạch cho các nhà đầu tư biết và điều chỉnh lại giá trị phần vốn nhà nước khi quyết toán tại thời điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu, ổn định thị trường Tết
Ban Chỉ đạo điều hành giá vừa có Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ - Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá tại cuộc họp Ban Chỉ đạo ngày 13/10/2017.
Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát. Tính toán điều hành tăng trưởng tín dụng theo khả năng hấp thụ của nền kinh tế để vừa hỗ trợ tăng trưởng nhưng không tạo lạm phát kỳ vọng cho năm 2018, giữ ổn định lạm phát cơ bản trong khoảng 1,6%. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ. Căn cứ diễn biến lạm phát để nghiên cứu các giải pháp điều hành lãi suất huy động, nhất là lãi suất cho vay theo hướng bám sát diễn biến thị trường và hỗ trợ cho tăng trưởng, tranh thủ điều kiện thuận lợi để giảm lãi suất nếu có thể.
Về giá các mặt hàng nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các địa phương theo dõi sát diễn biến thị trường các mặt hàng nông sản; phối hợp với Bộ Công Thương cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lúa gạo, thực phẩm, đường, muối nhằm ổn định thị trường nhất là trong thời điểm Tết Dương lịch và chuẩn bị cho Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018. Cập nhật đánh giá tình hình thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và tác động đến giá hàng nông sản do thiên tai, lũ lụt trong thời gian vừa qua báo cáo Phó Thủ tướng - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá đồng thời gửi Bộ Tài chính để tổng hợp phục vụ cho việc xây dựng kịch bản điều hành giá.
Bộ Công Thương khẩn trương hoàn thiện phương án điều chỉnh giá điện trình Chính phủ quyết định. Trường hợp cần thiết phải tăng giá điện cần cân nhắc điều chỉnh ở mức thấp nhất có thể, đồng thời kết hợp đồng bộ với các giải pháp hỗ trợ tăng trưởng khác để bù đắp cho mức giảm tốc độ tăng GDP tương ứng.
Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính tiếp tục điều hành giá xăng dầu trong nước theo Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 của Chính phủ, sử dụng Quỹ bình ổn giá với liều lượng thích hợp giúp kiểm soát mặt bằng giá chung, nhất là trong các thời điểm cận lễ, Tết hoặc thời điểm mà giá xăng dầu đã tăng nhiều kỳ liên tục để tránh ảnh hưởng đến kỳ vọng về lạm phát.
Đối với việc thực hiện lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế trong năm 2018, Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội và Bộ Tài chính thực hiện tính toán, báo cáo Chính phủ lộ trình điều chỉnh phù hợp và các giải pháp để bảo đảm khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế khi thực hiện lộ trình điều chỉnh giá.
Bộ Y tế tiếp tục thực hiện việc đấu thầu thuốc tập trung, đẩy nhanh việc đàm phán giá thuốc đối với các loại thuốc biệt dược, các loại thuốc đã hết hạn hợp đồng; Bảo hiểm xã hội tiếp tục thực hiện việc đấu thầu thuốc tập trung theo Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 7/7/2016 với mục tiêu kéo giá thuốc giảm từ 10 - 15%.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nắm bắt, đánh giá việc điều chỉnh học phí của các cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề trong năm 2017 so với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ sự nghiệp công quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập để có định hướng điều chỉnh giá phù hợp cho năm 2018. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các địa phương đánh giá kĩ tình hình thực hiện mức giá hiện hành so với khung, trần học phí được quy định tại Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021 để xây dựng kịch bản điều hành giá trong các năm tiếp theo cũng như để đưa ra kiến nghị, sửa đổi Nghị định số 86/2015/NĐ-CP phù hợp với thực tế thực hiện.
Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành sớm thực hiện ngay việc rà soát, hoàn thiện cơ chế quản lý giá đối với các dịch vụ chuyển từ phí sang giá thuộc thẩm quyền và chủ động nắm bắt tình hình xây dựng giá các dịch vụ do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành nhưng thuộc thẩm quyền quản lý chuyên môn của các Bộ; ban hành đồng bộ các văn bản về định mức kinh tế, kỹ thuật và các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền trong năm 2017 để làm cơ sở cho việc tính đúng, tính đủ giá dịch vụ theo cơ chế thị trường báo cáo thường trực Ban Chỉ đạo tổng hợp trong cuộc họp Ban chỉ đạo quý IV năm 2017.
Đối với việc thực hiện lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước, căn cứ các quy định của pháp luật về giá và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ban hành danh mục các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc các Bộ chuyên ngành, các Bộ, ngành, UBND theo thẩm quyền khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật quy định lộ trình tính đủ giá; quy định về danh mục dịch vụ sự nghiệp công, đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
Lập Quy hoạch Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đồng ý chủ trương giao UBND tỉnh Kon Tum chủ trì lập Quy hoạch tổng thể Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh (huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum).
Phó Thủ tướng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định Nhiệm vụ Quy hoạch và Đồ án Quy hoạch tổng thể Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh theo quy định hiện hành; trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt./.