In bài viết

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 16/9/2025 (2)

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 16/9/2025 (2).

16/09/2025 21:32
Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 16/9/2025 (2)- Ảnh 1.

Thủ tướng chỉ đạo các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao đời sống Nhân dân

Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao đời sống Nhân dân

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 165/CĐ-TTg ngày 16/9/2025 về việc tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao đời sống Nhân dân.

Ngày 12 tháng 9 năm 2025, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp về tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao đời sống Nhân dân. Tham dự cuộc họp có Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Công Thương; Xây dựng, Ngoại giao, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Văn phòng Chính phủ. Sau khi nghe báo cáo của các Bộ, cơ quan, ý kiến của Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo như sau:

Thống nhất nhận định về tình hình kinh tế - xã hội như đánh giá tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2025. Trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, nhưng dưới sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, sự giám sát của Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, kịp thời, sáng tạo, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của Nhân dân, doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong tháng 8 tiếp tục xu hướng tích cực. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, thị trường lao động ổn định, nợ công, bội chi ngân sách được kiểm soát trong giới hạn, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân nâng lên. Các kết quả tích cực là chủ yếu; nhưng một số vấn đề cần lưu ý, nhất là nắm chắc tình hình và xử lý, giải quyết chủ động kịp thời, linh hoạt, hiệu quả hơn như vấn đề tỷ giá, chứng khoán, bất động sản, tăng trưởng tín dụng không đúng chủ trương, đi chệch mục tiêu, sở hữu chéo của ngân hàng, giá vàng, an ninh mạng, thúc đẩy đầu tư công…

Mục tiêu đề ra thời gian tới là rất cao, trong bối cảnh kinh tế thế giới rất khó khăn; nhưng chúng ta phải quyết tâm phấn đấu để đạt được, với phương châm phát triển nhanh, bền vững, "nhìn xa trông rộng, nghĩ sâu làm lớn", dứt khoát không để phát triển nóng, không để thiếu năng lượng, thiếu lao động... Mục tiêu tổng quát năm 2025 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra, tăng trưởng từ 8,3- 8,5%, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; thu ngân sách nhà nước vượt dự toán 25%, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, thấp hơn ngưỡng cảnh báo; bảo đảm an ninh tiền tệ, an ninh lương thực, thực phẩm, an ninh mạng trong bất cứ trường hợp nào, đồng thời tăng cường xuất khẩu; bảo đảm giá các mặt hàng chiến lược phù hợp với nền kinh tế và thu nhập của Nhân dân… Quán triệt phương châm ổn định để phát triển, phát triển để ổn định, phát triển nhanh, bền vững gắn kết chặt chẽ với tiếp tục nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân.

Để hoàn thành được các mục tiêu đề ra, yêu cầu các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương cần phải quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, bản lĩnh, bình tĩnh, xem xét các vấn đề một cách khoa học, khách quan, bám sát thực tiễn; phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả giữa các chính sách, giữa các Bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương, giữa nguồn lực nhà nước và nguồn lực tư nhân; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp được giao tại các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Lãnh đạo Chủ chốt, Nghị quyết của Chính phủ, các Công điện, Chỉ thị và văn bản chỉ đạo kịp thời, thường xuyên của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Tiếp tục miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, mặt nước để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm các giải pháp để khai thác dư địa của chính sách tài khóa hỗ trợ đắc lực, hiệu quả cho chính sách tiền tệ nhất là giải ngân đầu tư công và tận dụng công cụ huy động các nguồn vốn; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và chính sách vĩ mô khác. Tiếp tục triển khai các chính sách miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, mặt nước để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân.

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và thực hiện các giải pháp để phát triển mạnh mẽ thị trường vốn, thị trường chứng khoán, bảo đảm ổn định, lành mạnh, bền vững, theo đúng quy luật thị trường, tạo kênh huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế. Khẩn trương hoàn thiện các Nghị định hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 222/2025/QH15 của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.

Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, ngành có liên quan trao đổi tích cực, hiệu quả với các tổ chức xếp hạng và các nhà đầu tư nước ngoài để tháo gỡ các vướng mắc, bảo đảm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí thúc đẩy việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian sớm nhất có thể.

Đồng thời, tăng cường huy động nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế như phát hành trái phiếu Chính phủ cho các công trình trọng điểm, các lĩnh vực ưu tiên như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo…

Bộ Tài chính theo dõi sát tiến độ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công của các Bộ, cơ quan, địa phương; đề xuất các giải pháp quyết liệt, đột phá, hiệu quả để bảo đảm giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025. Phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng, sớm báo cáo cấp có thẩm quyền tháo gỡ vướng mắc cho các dự án để giải phóng nguồn lực.

Khẩn trương hướng dẫn và tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP của Chính phủ về triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.

Ổn định thị trường vàng, thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng quốc tế và trong nước

Thủ tướng Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước, để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng nhanh nhưng bền vững.

Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí để có dư địa giảm lãi suất cho vay; tăng cường hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát để hướng nguồn vốn tín dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng của nền kinh tế; kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, xử lý nghiêm túc hơn nữa dòng vốn tín dụng đi vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Triển khai quyết liệt, có hiệu quả các chương trình tín dụng ưu đãi, nhất là cho nhà ở xã hội, ngành nông nghiệp xuất khẩu, cho người trẻ mua nhà và sinh viên học tập...

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức tín dụng hoạt động không lành mạnh; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật.

Quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối và thị trường vàng, điều hành tỷ giá linh hoạt, hài hòa, cân bằng hợp lý với lãi suất, ổn định giá trị đồng Việt Nam; có giải pháp hữu hiệu tăng dự trữ ngoại hối đáp ứng yêu cầu nhập khẩu cho sản xuất kinh doanh; phối hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ, sẵn sàng can thiệp tổng hòa các công cụ nghiệp vụ ngân hàng khi cần thiết để bình ổn thị trường.

Thủ tướng cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương theo thẩm quyền thực hiện các giải pháp, công cụ cần thiết quyết liệt đã có quy định để bình ổn, ổn định thị trường vàng, thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng quốc tế và giá vàng trong nước. Tăng cường thanh tra, kiểm tra để phát hiện và xử lý nghiêm theo pháp luật các vi phạm liên quan đến thị trường vàng, nhất là lợi dụng chính sách, găm hàng, đội giá, buôn lậu…

Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng để sớm triển khai trong thực tiễn nhằm phát triển thị trường vàng ổn định, minh bạch, lành mạnh, bền vững, theo đúng quy luật thị trường.

Mở rộng thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh kết nối cung cầu, gắn kết sản xuất, phân phối và tiêu dùng

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường, ổn định thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thị trường mới. Đẩy mạnh kết nối cung cầu, gắn kết sản xuất, phân phối và tiêu dùng, tăng cường tổ chức các chương trình khuyến mại, Hội chợ... nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước. Kiểm soát và tháo gỡ các nút thắt về phát triển thị trường năng lượng; không để thiếu điện, xăng dầu, hàng hóa thiết yếu.

Tăng nguồn cung bất động sản, đa dạng phân khúc, đa dạng sản phẩm

Bộ Xây dựng được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện các giải pháp để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, theo quy luật thị trường. Có giải pháp kịp thời, hiệu quả tăng nguồn cung bất động sản, đa dạng phân khúc, đa dạng sản phẩm để hạn chế sự chênh lệch cung – cầu trong cơ cấu sản phẩm bất động sản. Phấn đấu năm 2025 hoàn thành 100.000 căn nhà ở xã hội và đưa kịp thời vào thị trường tiêu thụ.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện các giải pháp phát triển thị trường khoa học và công nghệ hoạt động công khai, minh bạch, lành mạnh, bền vững, theo quy luật thị trường; tập trung triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực thi công vụ

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc vận hành chính quyền địa phương 2 cấp; tăng cường vai trò kiến tạo, tự lực, tự cường, tinh thần phục vụ nhân dân của các cấp chính quyền địa phương, nhất là cấp xã.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực thi công vụ của các cấp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo, chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan truyền thông thực hiện công tác thông tin, truyền thông khách quan, trung thực, khoa học, phản ánh đúng tình hình, tạo niềm tin, khí thế, tạo động lực, truyền cảm hứng trong Nhân dân, thúc đẩy mục tiêu phát triển đất nước. Thúc đẩy xúc tiến du lịch, mở rộng thị trường sản phẩm cho du lịch, nâng cao chất lượng phát triển du lịch.

Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước… theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Chính phủ giao, nhất là mở rộng thị trường và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao thường xuyên nắm chắc tình hình, có phản ứng chính sách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, không để bị động bất ngờ. Chỉ đạo kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả các chính sách, nhất là tài khóa và tiền tệ; tập trung thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phấn đấu hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2025 đã đề ra của ngành, lĩnh vực, địa phương.

Triển khai quyết liệt, mạnh mẽ các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; kiên quyết không để việc triển khai chính quyền địa phương 02 cấp ảnh hưởng đến công tác giải phóng mặt bằng và giải ngân các dự án đầu tư công; phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn năm 2025. Quyết liệt xử lý tháo gỡ các dự án tồn đọng vướng mắc theo thẩm quyền.

Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn…; tập trung xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu bảo đảm sự kết nối, liên thông, hiệu quả.

Theo dõi sát diễn biến giá cả các mặt hàng thiết yếu, nhất là lương thực, thực phẩm, năng lượng… để kịp thời có biện pháp quản lý, điều hành phù hợp, ổn định thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo ổn định, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân.

Quyết liệt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai chính quyền địa phương 2 cấp

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao quyết liệt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai chính quyền địa phương 2 cấp; cắt giảm thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát. Kết hợp hài hòa nguồn lực của Trung ương và địa phương, trong nước và ngoài nước; tăng cường tính tự chủ, sáng tạo của địa phương.

Chủ động, linh hoạt thực hiện các giải pháp đồng bộ phát triển văn hóa, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, chính sách đối với người có công, các đối tượng yếu thế, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; xóa nhà tạm, nhà dột nát... Tập trung triển khai hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Các cơ quan truyền thông, báo chí coi trọng công tác tuyên truyền, định hướng dư luận khách quan, trung thực; không để các thế lực thù địch, tổ chức phản động lợi dụng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà làm việc cụ thể với Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan liên quan để chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể theo lĩnh vực được phân công.

Giao Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc làm việc cụ thể với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan để chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể theo lĩnh vực được phân công.

Giao Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn làm việc cụ thể với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan để chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể theo lĩnh vực được phân công.

Các Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ và các Thành viên Chính phủ tiếp tục tăng cường kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chính quyền địa phương 2 cấp, giải ngân vốn đầu tư công tại các Bộ, cơ quan, địa phương theo phân công của Thủ tướng Chính phủ.

Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao; báo cáo cấp có thẩm quyền các vấn đề phát sinh vượt thẩm quyền.

Chính phủ thống nhất thông qua dự án Luật Viên chức (sửa đổi)

Chính phủ ban hành Nghị quyết số 279/NQ-CP ngày 15/9/2025 thống nhất thông qua dự án Luật Viên chức (sửa đổi) do Bộ Nội vụ trình.

Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm về việc tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Viên chức (sửa đổi); thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật và các văn bản liên quan trình Quốc hội theo quy định.

Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội; chủ động báo cáo, giải trình trong quá trình thẩm tra, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Quốc hội về dự án Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và chịu trách nhiệm về nội dung báo cáo.

Nghị quyết phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2025

Thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan bám sát quan điểm, chủ trương đường lối, quyết sách của Đảng, phát huy tinh thần tích cực chủ động, trách nhiệm cao, đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, nhất là đối với các dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết để trình Quốc hội xem xét, chú trọng nâng cao chất lượng trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý để kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, thương mại, đầu tư, công tác an sinh xã hội và người dân, doanh nghiệp.

Tại Phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2025, Chính phủ đã thảo luận, cho ý kiến đối với 08 dự án luật và 01 hồ sơ chính sách dự án luật để trình Quốc hội nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong các lĩnh vực liên quan; tháo gỡ kịp thời một số vướng mắc, bất cập có nguyên nhân từ quy định của pháp luật; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính; củng cố cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước trên môi trường mạng, liên thông dữ liệu điện tử, bảo đảm nhanh chóng vận hành ổn định, hiệu quả của tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra của năm 2025.

Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao các Bộ: Tư pháp; Y tế; Công an; Khoa học và Công nghệ; Tài chính; Nông nghiệp và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẩn trương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan chuẩn bị, trình Chính phủ các dự án: (1) dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi); (2) dự án Luật Phòng bệnh; (3) dự án Luật Dân số (sửa đổi); (4) dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi); (5) dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí; (6) dự án Luật Chuyển đổi số; (7) dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và Khoáng sản; (8) dự án Luật An ninh mạng và (9) Hồ sơ chính sách xây dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi); đồng thời ghi nhận sự tích cực, chủ động của các bộ, cơ quan liên quan trong việc tham gia ý kiến, hoàn thiện dự án luật, nghị quyết với tinh thần trách nhiệm cao, bảo đảm tiến độ và chất lượng.

Trên cơ sở xem xét hồ sơ trình của các bộ, cơ quan và các ý kiến phát biểu tại Phiên họp, Chính phủ thống nhất quyết nghị đối với các dự án luật nêu trên.

Dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi)

Chính phủ đánh giá cao Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Giám định tư pháp hiện hành để soạn thảo luật thay thế nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động giám định tư pháp, góp phần giải quyết các vụ án kịp thời, khách quan, nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng.

Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, đại biểu dự họp, tiếp tục rà soát hoàn thiện dự án Luật bảo đảm yêu cầu sau:

Thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp; phù hợp với Hiến pháp, pháp luật có liên quan. Nghiên cứu, kế thừa những chính sách, quy định trong Luật hiện hành đã được thực tế chứng minh, áp dụng có hiệu quả; bổ sung các quy định để xử lý bất cập, vướng mắc phát sinh trên thực tiễn.

Rà soát, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan, như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự...; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế, lựa chọn tiếp thu phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. Tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn; đẩy mạnh truyền thông chính sách để tạo sự đồng thuận; phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành, cơ quan của Đảng, cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hoàn thiện Hồ sơ chính sách Luật.

Tiếp tục rà soát, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong thực hiện thủ tục hành chính; tiếp tục rà soát, đề xuất phân cấp, phân quyền triệt để cho các cơ quan, địa phương trực tiếp quản lý, thực hiện (gắn với cơ chế kiểm soát, giám sát; bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ kết quả) nhằm khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trong tiếp nhận và thực hiện giám định, gây ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ án, đồng thời bảo đảm phù hợp với khả năng chuyên môn của tổ chức giám định đối với vụ việc khó, phức tạp.

Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, bổ sung các chế độ, chính sách ưu đãi để giữ và thu hút người làm giám định trong các lĩnh vực giám định chuyên trách; tiếp tục nghiên cứu cơ chế bảo vệ, miễn trừ trách nhiệm đối với giám định viên. Quy định rõ, khả thi nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp, bảo đảm phối hợp hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp với cơ quan tiến hành tố tụng các cấp.

Về lĩnh vực giám định pháp y tại địa phương (Điều 15 dự thảo Luật): Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu quy định theo hướng Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh, thành phố được thực hiện giám định pháp y tử thi và giám định pháp y thương tích vì khả năng chuyên môn đã đáp ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho cơ quan trưng cầu giám định tư pháp trong trường hợp vụ việc, vụ án cần giám định cả về giám định pháp y thương tích và giám định pháp y tử thi, đồng thời cần nghiên cứu tổ chức lại các cơ quan giám định pháp y công lập tại địa phương nhằm tránh chồng chéo, lãng phí.

Về mở rộng phạm vi xã hội hóa giám định tư pháp (Điều 18 dự thảo Luật): Bộ Tư pháp tiếp tục rà soát, nghiên cứu quy định theo hướng mở rộng phạm vi giám định đối với Văn phòng giám định tư pháp như dự thảo Luật nhằm phục vụ nhu cầu của hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, nhu cầu của tổ chức, cá nhân trong xã hội; riêng các chuyên ngành ADN, tài liệu, kỹ thuật số và điện tử, dấu vết đường vân thì việc giám định phục vụ hoạt động tổ tụng hình sự phải do tổ chức giám định tư pháp công lập thực hiện, bảo đảm đáp ứng được yêu cầu, tính chất của hoạt động tố tụng, đồng thời phù hợp với chủ trương của Đảng về xã hội hóa lĩnh vực giám định tư pháp.

Về thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 9 dự thảo Luật): Thống nhất nội dung dự thảo Luật quy định theo hướng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp đối với người làm việc tại cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền quản lý nhằm tạo sự chủ động cho Bộ, ngành chủ quản gắn với trách nhiệm quản lý, sử dụng và giám sát đội ngũ giám định viên do mình bổ nhiệm; tránh tình trạng Cơ quan quản lý sử dụng giám định viên nhưng không có thẩm quyền bổ nhiệm vì bản chất đây là hoạt động công vụ.

Về cơ chế thanh toán chỉ phí giám định tư pháp (Điều 38 dự thảo Luật): Thống nhất với dự thảo Luật quy định theo hướng, chuyển việc lập dự toán thanh toán sang cho cơ quan, tổ chức thực hiện giám định (đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước được ngân sách nhà nước bố trí kinh phí hoạt động) vì cơ quan thực hiện giám định trực tiếp quản lý người thực hiện giám định, nắm rõ các công việc cũng như chi phí phát sinh; góp phần khắc phục tình trạng thanh toán không kịp thời, phải thông qua cơ quan trưng cầu, trong khi hoạt động giám định trong tố tụng là hoạt động công vụ, đều chi từ ngân sách nhà nước; cơ quan trưng cầu chỉ lập dự toán thanh toán chi trả cho người thực hiện giám định không được bố trí từ ngân sách nhà nước.

Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan liên quan hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình Quốc hội dự án Luật này tại Kỳ họp thứ X Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện dự án Luật này.

Dự án Luật Phòng bệnh

Chính phủ đánh giá cao Bộ Y tế đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan trong việc xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Phòng bệnh theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng dự án Luật Phòng bệnh nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, bảo đảm thể chế hóa kịp thời các đường lối, chủ trương của Đảng đối với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính; đáp ứng kịp thời với việc sắp xếp tổ chức bộ máy của các bộ, ngành, địa phương; đồng thời, hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiểm soát các hoạt động phòng, chống dịch bệnh; tiêm chủng và sử dụng vaccine, sinh phẩm; phòng, chống các bệnh không lây nhiễm, rối loạn sức khỏe tâm thần,...

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, đại biểu dự họp, tiếp tục rà soát,hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng:

Tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ tác động đối với các chính sách mới để cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, quan điểm của Đảng về chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân; xử lý, giải quyết các vướng mắc, bất cập đã được tổng kết thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 cũng như các ý kiến góp ý của các cơ quan, bộ ngành và đối tượng chịu sự tác động.

Kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những khó khăn, vướng mắc của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe Nhân dân; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế của một số quốc gia trên thế giới bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Nội dung dự thảo theo hướng Luật khung, mang tính nguyên tắc, chỉ quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội, giao Chính phủ quy định về những nội dung cụ thể, chi tiết, chuyên ngành; nghiên cứu sửa trực tiếp các luật khác có liên quan theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; rà soát kỹ các điều khoản chuyển tiếp phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp của cá nhân, tổ chức, tránh tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật này có hiệu lực thi hành.

Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu, xác định rõ nội dung quản lý nhà nước cho các chính quyền địa phương; cải cách triệt để thủ tục hành chính và đẩy mạnh áp dụng công nghệ, chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước về Y tế.

Phối hợp các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ nội dung sửa đổi, bổ sung, lược bỏ bảo đảm phù hợp với quy định về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; bảo đảm thống nhất, không chồng chéo với các văn bản pháp luật có liên quan.

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ liên quan bám sát các ý kiến thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chínhphủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long và báo cáo của Bộ Tư pháp về việc tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định đối với dự án Luật, trong đó bổ sung các biện pháp đối với phòng, chống bệnh không lây nhiễm, rối loạn sức khỏe tâm thần, dinh dưỡng và các yếu tố nguy cơ khác để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bộ trưởng Bộ Y tế thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật này, bảo đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.

Dự án Luật Dân số (sửa đổi)

Chính phủ đánh giá cao Bộ Y tế đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan trong việc xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Dân số theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng dự án Luật Dân số nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thi hành Pháp lệnh Dân số, bảo đảm thể chế hóa kịp thời các đường lối, chủ trương của Đảng đối với công tác Dân số và phát triển; đáp ứng kịp thời với việc sắp xếp tổ chức bộ máy của các bộ, ngành, địa phương; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính; đồng thời, hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiểm soát các biện pháp tăng mức sinh và duy trì mức sinh thay thế, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số...

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ liên quan bám sát các ý kiến thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long và báo cáo của Bộ Tư pháp về việc tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định đối với dự án Luật, trong đó lưu ý 04 vấn đề then chốt của công tác dân số trong tình hình mới là: (i) chất lượng dân số; (ii) khuyến sinh (không thu hẹp các biện pháp khuyến khích sinh con tại các quy định về mức sinh thay thế); (iii) già hóa dân số; (iv) bảo đảm các nguồn lực để thực hiện sau khi Luật được ban hành. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng:

Đánh giá kỹ tác động đối với chính sách mới để cụ thể hóa đầy đủ chủ trương, quan điểm về dân số của Đảng; xử lý, giải quyết các vướng mắc, bất cập đã được tổng kết thi hành Pháp lệnh Dân số năm 2003; đồng thời, tăng cường việc hoàn thiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu quả công tác Dân số và Phát triển.

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của dự án Luật trong hệ thống pháp luật.

Kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh Dân số năm 2003, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế của một số quốc gia trên thế giới để xây dựng quy định mới phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Nội dung dự thảo theo hướng Luật khung, mang tính nguyên tắc, chỉ quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội, giao Chính phủ quy định về những nội dung cụ thể, chi tiết, chuyên ngành; nghiên cứu sửa trực tiếp các luật khác có liên quan theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; rà soát kỹ các điều khoản chuyển tiếp phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tránh tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật này có hiệu lực thi hành.

Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu, xác định rõ nội dung quản lý nhà nước cho các chính quyền địa phương; cải cách triệt để thủ tục hành chính và đẩy mạnh áp dụng công nghệ, chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước về dân số.

Phối hợp các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ nội dung sửa đổi, bổ sung, lược bỏ bảo đảm phù hợp với quy định về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; bảo đảm thống nhất, không chồng chéo với các văn bản pháp luật có liên quan.

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ liên quan, hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bộ trưởng Bộ Y tế thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật này, bảo đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.

Hồ sơ chính sách xây dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi)

Chính phủ thống nhất sự cần thiết xây dựng hồ sơ chính sách dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) để thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; đồng thời nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế, tạo hành lang pháp lý cho chuyển đổi số, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp và chống thất thu thuế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới.

Chính phủ thống nhất nội dung 08 chính sách do Bộ Tài chính đề xuất (tại Tờ trình số 481/TTr-BTC ngày 10 tháng 8 năm 2025 và Tờ trình số 482/TTr-BTC ngày 10 tháng 8 năm 2025). Bộ Tài chính xem xét lồng ghép nội dung về ứng dụng công nghệ thông tin tại chính sách 8 vào các nhóm chính sách khác.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ, đại biểu dự họp, tiếp tục rà soát hoàn thiện dự án Luật bảo đảm yêu cầu sau:

Nội dung xây dựng chính sách theo hướng Luật khung, mang tính nguyên tắc, chỉ quy định những nội dung thuộc thẩm quyền của Quốc hội, giao Chính phủ quy định về những nội dung cụ thể, chỉ tiết, chuyên ngành.

Rà soát kỹ các nội dung chính sách Luật bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định của Hiến pháp và các quy định của Luật khác liên quan như: Luật Đất đai, Luật Giao dịch điện tử, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thanh tra...

Về quản lý hộ kinh doanh, cần đánh giá tác động kỹ lưỡng hơn đối với nhóm đối tượng này, đảm bảo các giải pháp thay thế (kê khai, hóa đơn điện tử) có tính khả thi cao, lộ trình chuyển đổi hợp lý, tránh gây xáo trộn lớn cho hoạt động kinh doanh của người dân.

Rà soát, hoàn thiện quy định về tiền chậm nộp bảo đảm hiệu quả, khả thi, phù hợp thực tiễn triển khai.

Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu; rà soát kỹ nội dung được đề xuất sửa đổi, bổ sung, lược bỏ để bảo đảm phù hợp với quy định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp và xác định rõ nội dung quản lý nhà nước cho các chính quyền địa phương.

Rà soát kỹ để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; nghiên cứu quy định áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu... để đơn giản, hiện đại hóa các quy trình quản lý thuế.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan hoàn thiện nội dung chính sách; trên cơ sở đó, chủ động tổ chức việc soạn thảo dự án Luật, trình Chính phủ tại Phiên họp Chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 9 năm 2025.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện dự án Luật.

Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi)

Chính phủ đánh giá cao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng, trình Chính phủ dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dự án Luật đã bám sát (nội dung) chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 191/NQ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2025.

Chính phủ thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ, đại biểu dự họp, hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm các yêu cầu: (1) Thực hiện phân cấp mạnh mẽ, giao Ngân hàng Nhà nước quy định hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi; phí bảo hiểm tiền gửi; phương thức đầu tư, quy trình kiểm soát, quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đảm bảo yêu cầu về phân cấp, phân quyền; (2) Giao Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý vốn, tài sản theo quy định của pháp luật; (3) Về nội dung liên quan đến thuế của tổ chức bảo hiểm tiền gửi không quy định tại dự thảo Luật mà thực hiện theo pháp luật về thuế.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan, hoàn thiện dự án Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thừa ủy quyềnThủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình Quốc hội dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật này.

Dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí

Chính phủ đánh giá cao Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị, xây dựng dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí trình Chính phủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật theo hướng nâng cao tính chủ động, tự nguyện, tự giác trong công tác tiết kiệm, chống lãng phí để xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trong toàn xã hội; có cơ chế nhận diện hành vi gây lãng phí, hành vi vi phạm trong tổ chức thực hiện phòng, chống lãng phí và chế tài xử lý đối với các hành vi này; đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý đối với các hành vi lãng phí.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, đại biểu dự họp, tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng:

Thể chế hóa đầy đủ các nhóm hành vi gây lãng phí cần tập trung xử lý mà Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã chỉ ra tại Hướng dẫn số 63-HD/BCĐTW ngày 28/4/2025 của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý về quyền cung cấp thông tin, phản ánh về các hành vi gây lãng phí và có cơ chế để bảo vệ các chủ thể cung cấp, phản ánh thông tin theo Quy định số 231-QĐ/TW ngày 17/01/2025 của Ban Chấp hành trung ương về bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đảm bảo tính công khai, minh bạch các thông tin quản lý, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế để mọi tổ chức, cá nhân có cơ sở theo dõi, giám sát, phản ánh cung cấp thông tin về các hành vi gây lãng phí cho cơ quan có thẩm quyền kịp thời xử lý.

Đảm bảo quy định đầy đủ, đồng bộ các giải pháp để xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trong toàn xã hội; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành "tự giác", "tự nguyện" như "cơm ăn nước uống, áo mặc hằng ngày".

Rà soát và nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật bảo đảm sự phù hợp, tính thống nhất, đồng bộ với các Luật chuyên ngành khác có liên quan, đảm bảo tính khả thi, tránh vướng mắc phát sinh khi thực hiện.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật; giao Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật.

Dự án Luật Chuyển đổi số

Chính phủ đánh giá cao Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Chuyển đổi số một cách khẩn trương, nghiêm túc theo trình tự thủ tục rút gọn, bám sát các nội dung theo Nghị quyết số 217/NQ-CP ngày 25/7/2025 của Chính phủ.

Chính phủ thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật Chuyển đổi số nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chuyển đổi số, đặc biệt là Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ và ý kiến các đại biểu tại Phiên họp Chính phủ để hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm các yêu cầu sau:

Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật; không chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định về chuyển đổi số trong các luật, pháp lệnh hiện hành; tập trung vào những vấn đề lớn, cốt lõi thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Rà soát, chuẩn hóa các khái niệm, nội hàm để định nghĩa rõ ràng, chính xác, dễ hiểu; bổ sung cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong hoạt động chính phủ số; quy định trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước khi vi phạm.

Các quy định của Luật phải bảo đảm tính khả thi, sát thực tiễn; cắt giảm tối đa giấy tờ, thực hiện tái sử dụng hồ sơ đã số hóa và dữ liệu đã được kết nối, chia sẻ trong cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khi giải quyết thủ tục hành chính, bảo đảm thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình cho người dân và doanh nghiệp; giảm chi phí tuân thủ; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền để thúc đẩy phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập.

Xử lý triệt để các vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn; khắc phục được những tồn tại, hạn chế, khoảng trống pháp lý về chuyển đổi số hiện nay.

Tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật.

Tham khảo, kế thừa chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, có đánh giá, phân tích các xu hướng lớn trên thế giới trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, bảo đảm phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của các đại biểu tham dự, ý kiến của thành viên Chính phủ, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp; khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật Chuyển đổi số theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khoá XV (tháng 10/2025); Giao Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, ký Tờ trình gửi Quốc hội theo quy định.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật.

Dự án Luật An ninh mạng

Chính phủ đánh giá cao Bộ Công an đã xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật An ninh mạng trên cơ sở việc hợp nhất Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2018). Dự án Luật được chuẩn bị công phu, khẩn trương theo quy trình thủ tục rút gọn, bám sát các nội dung đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 169/NQ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2025.

Chính phủ thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật An ninh mạng nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về an ninh mạng, quản lý và bảo vệ không gian mạng.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ và ý kiến của các đại biểu tại Phiên họp Chính phủ để hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm một số yêu cầu sau:

Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, loại bỏ sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa hai luật hiện hành, tạo khung pháp lý rõ ràng, minh bạch, đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ không gian mạng.

Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm an ninh mạng, kết hợp chặt chẽ các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin, dữ liệu cá nhân, phòng chống tấn công mạng với các giải pháp bảo đảm an ninh quốc gia trên không gian mạng.

Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong việc tuân thủ pháp luật, giảm thiểu thủ tục hành chính, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp, thúc đẩy môi trường số an toàn, phát triển kinh tế số bền vững.

Hoàn thiện cơ chế phòng thủ, giám sát, cảnh báo và ứng phó với các nguy cơ, sự cố an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, tăng cường năng lực phòng ngừa và khắc phục hậu quả của các cuộc tấn công mạng.

Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phù hợp với các cam kết, chuẩn mực quốc tế về an ninh mạng, thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh mạng.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ; chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật An ninh mạng theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật.

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản

Chính phủ đánh giá cao Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ cơ bản thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản do Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình tại Tờ trình số 142/TTr-BNNMT ngày 28 tháng 8 năm 2025.

Bộ Nông nghiếp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cửu, tiếp thu tối da ý kiến Thành viên Chính phủ và ý kiến tại Phiên họp Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, bảo đảm sát thực tiễn, giải quyết các vướng mắc phát sinh, giải phóng nguồn lực, tài nguyên khoáng sản để phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời quản lý, sử dụng bền vũng, bảo vệ môi trường sinh thái, trong đó lưu ý một số nguyên tắc, yêu cầu sau:

Rà soát quy định trong cấp phép khai thác khoáng sản để thống nhất với quy định của pháp luật về đầu tư, bảo vệ môi trường, quy hoạch, đất đai..., bảo đảm không vướng mắc và thuận lợi trong thực hiện.

Rà soát, quy định các tiêu chí khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản bảo đảm khả thi, rõ ràng, minh bạch. Rà soát lược bỏ các quy định cụ thể về quy trình, thủ tục tại dự thảo Luật để quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ. Nghiên cứu bổ sung đầy đủ quy định về điều khoản chuyển tiếp để tránh vướng mắc khi Luật được thông qua.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan, nghiên cứu tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến của thành viên Chính phủ, kết luận của Chính phủ tại cuộc họp này để chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với dụ án Luật này tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đảm bảo chất lượng, tiến độ.

Phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật.

Thực hiện quy định số 178-QĐ/TW ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, các cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, nghị quyết phải rà soát những nội dung quan trọng, còn ý kiến khác nhau, vượt thẩm quyền để báo cáo BanThường vụ Đảng ủy Chính phủ trao đổi, thống nhất với Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội. Trường hợp không thống nhất, báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.

Quy chế hoạt động của BCĐ thực hiện Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm chính sách đặc thù phát triển TP Đà Nẵng

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình - Trưởng Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng ký Quyết định 128/QĐ-BCĐNQ136 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo này.

Quy chế này quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc và quan hệ phối hợp công tác của Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng (Ban Chỉ đạo).

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động

Ban Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.

Ban Chỉ đạo hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên; bảo đảm yêu cầu phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và trao đổi thông tin giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thành viên được pháp luật quy định.

Các thành viên Ban Chỉ đạo đề cao trách nhiệm cá nhân, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công; giải quyết công việc theo đúng thẩm quyền và trách nhiệm được giao, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và quy định của Quy chế này.

Các thành viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của Ban Chỉ đạo; thực hiện và chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban Chỉ đạo về những nhiệm vụ được phân công. Ý kiến tham gia của thành viên Ban Chỉ đạo là ý kiến chính thức của cơ quan, tổ chức nơi công tác.

Nhiệm vụ của các thành viên Ban Chỉ đạo

Quy chế quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các thành viên Ban Chỉ đạo.

Trong đó, Trưởng Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thống nhất, toàn diện các hoạt động của Ban Chỉ đạo; phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên Ban Chỉ đạo. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng Ban Chỉ đạo có thể ủy quyền cho Phó Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì các cuộc họp để thảo luận, quyết định một số vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của mình; triệu tập, chủ trì, kết luận các cuộc họp, làm việc định kỳ, đột xuất của Ban Chỉ đạo, quyết định những vấn đề thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo.

Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, thành viên Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm tham mưu, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 theo chức năng nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách, bảo đảm tiến độ và chất lượng; chỉ đạo xây dựng nội dung và thẩm tra, ban hành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng về triển khai thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 và thực hiện nhiệm vụ khác theo phân công của Trưởng Ban Chỉ đạo và Phó trưởng Ban Chỉ đạo.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, thành viên Ban Chỉ đạo đề xuất kế hoạch, chương trình công tác hằng năm, gửi cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo để tổng hợp, báo cáo; chịu trách nhiệm tham mưu, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 và các chương trình, kế hoạch công tác, kết luận của Ban Chỉ đạo theo chức năng nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách, bảo đảm tiến độ và chất lượng.

Đồng thời, chuẩn bị nội dung, tài liệu báo cáo tổng hợp chung về tình hình thực hiện các cơ chế, chính sách, các nhiệm vụ quy định tại Nghị quyết số 136/2024/QH15 phục vụ các cuộc họp của Ban Chỉ đạo; nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phối hợp triển khai thực hiện, báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, chỉ đạo xử lý và thực hiện nhiệm vụ khác theo phân công của Trưởng Ban Chỉ đạo và Phó trưởng Ban Chỉ đạo.

Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo

Bộ Tài chính là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, có trách nhiệm giúp Ban Chỉ đạo tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo; giúp Trưởng Ban Chỉ đạo trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình công tác của Ban Chỉ đạo; chủ trì chuẩn bị tài liệu phục vụ các cuộc họp của Ban Chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ khác theo phân công của Trưởng Ban Chỉ đạo và Phó trưởng Ban Chỉ đạo./.