Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 2023/QĐ-TTg ngày 15/9/2025 về sử dụng số điện thoại 112 tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc và Quyết định số 2024/QĐ-TTg ban hành Quy chế về việc sử dụng số điện thoại này.
Triển khai hệ thống Tổng đài 112 tiếp nhận thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa.
Quy chế quy định cụ thể việc sử dụng số điện thoại 112 tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc theo quy định tại Nghị định số 200/2025/NĐ-CP ngày 09/7/2025 của Chính phủ.
Hệ thống thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân sử dụng số điện thoại 112 được kết nối tới các hệ thống tiếp nhận thông tin khẩn cấp 113, 114, 115, hệ thống Đài Thông tin duyên hải Việt Nam và hệ thống thông tin liên lạc khác phục vụ trong lĩnh vực phòng thủ dân sự.
Quy trình tiếp nhận và xử lý thông tin
Về quy trình tiếp nhận thông tin, số điện thoại 112 sẽ tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân. Tổng đài 112 được đặt tại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (gọi chung là Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh).
Hệ thống Tổng đài 112 tiếp nhận thông tin từ: tổ chức, cá nhân; hệ thống Tổng đài 113, 114, 115; hệ thống thông tin liên lạc khác phục vụ trong lĩnh vực phòng thủ dân sự.
Nội dung tiếp nhận thông tin gồm: Tên cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin; thời gian, địa điểm xảy ra sự cố, thảm họa; diễn biến, phạm vi ảnh hưởng, khả năng lan rộng; những yêu cầu trợ giúp và thông tin cần thiết khác phục vụ công tác ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa.
Về quy trình xử lý thông tin, trực ban Tổng đài 112 nhận được thông tin về sự cố, thảm họa phải kịp thời báo cáo người trực chỉ huy Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh. Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh kịp thời thông báo cho cơ quan chủ trì theo từng lĩnh vực được phân công; đồng thời báo cáo về Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự cùng cấp và Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia (qua số điện thoại 02437.333.664 hoặc 02437.349.821, 069.928.815) để chỉ đạo.
Cơ quan chủ trì từng lĩnh vực được phân công chủ động phối hợp với cơ quan thường trực và các lực lượng triển khai ứng phó, khắc phục, xử lý tình huống; căn cứ vào tính chất, mức độ của tình huống, trường hợp vượt quá khả năng cần huy động lực lượng, phương tiện ngoài thẩm quyền, kịp thời báo cáo Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự cấp tỉnh để quyết định. Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự cấp tỉnh khi cần sự chi viện của Trung ương để ứng phó, khắc phục, xử lý tình huống, kịp thời báo cáo về Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia.
Các thông tin thuộc phạm vi xử lý của Tổng đài 113, 114, 115 được chuyển đến Tổng đài 113, 114, 115 để xử lý theo quy định. Trực ban tổng đài có trách nhiệm xử lý thông tin kịp thời, đúng quy định. Trường hợp xử lý thông tin chậm hoặc không đúng quy định, căn cứ vào mức độ thiệt hại sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.
Bộ Quốc phòng quản lý hệ thống Tổng đài 112
Về quản lý, vận hành hệ thống, Quy chế quy định Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý, tổ chức khai thác và bảo đảm hoạt động hệ thống thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân được đặt tại Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia và Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh.
Các doanh nghiệp viễn thông, người tiếp nhận, xử lý thông tin phải có trách nhiệm bảo mật dữ liệu về cuộc gọi, tin nhắn, đa phương tiện và dữ liệu cá nhân của người gọi; chỉ được lưu trữ dữ liệu cá nhân trong khoảng thời gian xử lý dữ liệu và chịu trách nhiệm tuân thủ việc bảo vệ dữ liệu cá nhân theo quy định của pháp luật.
Quy chế cũng quy định Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia có trách nhiệm chỉ đạo duy trì chế độ trực 24/7 tại Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia và Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự các cấp tiếp nhận thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc. Đồng thời, chỉ đạo sử dụng lực lượng phòng thủ dân sự chuyên trách và huy động lực lượng, phương tiện kiêm nhiệm bộ, ngành liên quan xử lý kịp thời, hiệu quả các sự cố, thiên tai và tìm kiếm, cứu nạn theo đề nghị của địa phương.
Miễn cước cuộc gọi đến Tổng đài 112
Tại Quyết định số 2023/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, triển khai hệ thống Tổng đài 112 tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc.
Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông kết nối với hệ thống thông tin liên lạc phục vụ phòng thủ dân sự sử dụng số điện thoại 112 và đảm bảo khả năng truy nhập đến số điện thoại 112 thông suốt trong mọi tình huống; miễn cước cuộc gọi cố định, di động, tin nhắn và đa phương tiện đến hệ thống Tổng đài 112.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 2020/QĐ-TTg phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nội vụ (Phương án).
Đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính liên quan đến dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Phương án gồm 2 phần: Phần I về ngành, nghề thuộc danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của luật đầu tư, trong đó chia thành 5 mục chính: kinh doanh dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; kinh doanh dịch vụ kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; kinh doanh dịch vụ huấn luyện an toàn lao động, vệ sinh lao động; kinh doanh dịch vụ việc làm; kinh doanh dịch vụ cho thuê lại lao động. Phần II về chế độ báo cáo của doanh nghiệp.
Về kinh doanh dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, sẽ cắt giảm, đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính (TTHC) cụ thể như sau:
Đối với thủ tục đăng ký hợp đồng cung ứng lao động của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nội dung cắt giảm, đơn giản hóa là: bãi bỏ nội dung "được chứng thực" đối với các bản dịch tiếng Việt của hợp đồng cung ứng lao động. Mục đích là tạo điều kiện để doanh nghiệp chủ động, linh hoạt trong chuẩn bị hồ sơ. Vì hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp có nhân viên nghiệp vụ có năng lực ngoại ngữ phù hợp với thị trường có thể thực hiện dịch thuật tài liệu mà không cần qua dịch vụ dịch thuật công chứng, chứng thực bản dịch. Lộ trình thực hiện nội dung cắt giảm này là từ năm 2026.
Đơn giản hóa TTHC cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Đối với thủ tục cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (gồm 15 yêu cầu, điều kiện), phương án cắt giảm, đơn giản hóa như sau:
Sửa đổi điều kiện hạn chế về nhóm ngành đào tạo cao đẳng trở lên đối với nhân viên nghiệp vụ tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 112/2021/NĐ-CP, chỉ quy định về trình độ đào tạo.
Bãi bỏ các điều kiện: "Trường hợp doanh nghiệp thuê cơ sở vật chất để tổ chức giáo dục định hướng thì thời hạn thuê phải còn ít nhất 02 năm tại thời điểm doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép"; "thời hạn thuê (nếu chi nhánh được doanh nghiệp dịch vụ giao tổ chức giáo dục định hướng thuê cơ sở vật chất) phải tối thiểu là 02 năm" nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp chủ động, linh hoạt trong đàm phán hợp đồng thuê, phù hợp điều kiện thực tiễn và sự biến đổi nhanh chóng của thị trường.
Bãi bỏ điều kiện "Doanh nghiệp dịch vụ giao nhiệm vụ cho chi nhánh thực hiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải ký quỹ thêm 500 triệu đồng đối với mỗi chi nhánh được giao nhiệm vụ" nhằm tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp
Bãi bỏ các điều kiện: "Doanh nghiệp dịch vụ phải duy trì quyền sử dụng hợp pháp cơ sở vật chất để tổ chức giáo dục định hướng trong suốt thời gian hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng"; "Trang thông tin điện tử của doanh nghiệp phải bảo đảm hoạt động thường xuyên, liên tục theo quy định của pháp luật về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng". Các công việc này sẽ được thực hiện hậu kiểm.
Phương án cũng bãi bỏ quy định yêu cầu nộp Phiếu lý lịch tư pháp. Trường hợp cần thiết, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp để hoàn thiện hồ sơ; hoặc cá nhân được xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp bản điện tử đã được cấp trên ứng dụng định danh và xác thực điện tử VNeID. Đồng thời, cắt giảm thời gian giải quyết TTHC từ 20 ngày xuống còn 15 ngày làm việc. Phương án này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Đối với thủ tục đổi Giấy phép hoạt động dịch vụ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 74 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo Phương án, trong năm 2025, thời gian giải quyết đối với thủ tục này sẽ giảm từ 10 ngày còn 07 ngày làm việc và sẽ được thực hiện trên môi trường điện tử.
Phương án cũng đã bãi bỏ các thủ tục: đăng ký hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở Nhật Bản/ Đài Loan (Trung Quốc) và chuyển thành công bố điều kiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở Nhật Bản/ Đài Loan (Trung Quốc).
Ngoài ra, bãi bỏ điều kiện có ít nhất 01 nhân viên nghiệp vụ thực hiện hoạt động tìm kiếm, phát triển thị trường lao động ngoài nước có năng lực tiếng Nhật trình độ tối thiểu N2 (chuẩn JLPT) hoặc tương đương; năng lực tiếng Trung trình độ tối thiểu HSK5 hoặc tương đương.
Về thủ tục hỗ trợ cho người lao động tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề, Phương án đã mở rộng đối tượng được hỗ trợ: người lao động là người hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân; là thanh niên tình nguyện hoàn thành nghĩa vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; là trí thức trẻ tình nguyện sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác tại khu kinh tế - quốc phòng; người có đất thu hồi thuộc đối tượng được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đồng thời, đơn giản hóa Mẫu đơn đề nghị hỗ trợ; Mẫu giấy xác nhận người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng; bãi bỏ thành phần hồ sơ là bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc thẻ căn cước công dân. Phân cấp xử lý thủ tục này từ cấp Bộ xuống Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Đơn giản hóa TTHC kinh doanh dịch vụ việc làm
Về kinh doanh dịch vụ việc làm, Phương án đã cắt giảm, đơn giản hóa các TTHC liên quan đến việc cấp, gia hạn, cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm. Cụ thể như sau:
Đối với việc cấp/ gia hạn Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm, Phương án đơn giản hóa các điều kiện sau: điều kiện "theo hợp đồng từ 03 năm (36 tháng) trở lên" thành "theo hợp đồng từ 02 năm (24 tháng)"; điều kiện "trong thời hạn 05 năm liền kề trước khi đề nghị cấp giấy phép" thành "Có trình độ từ đại học trở lên hoặc đã có thời gian trực tiếp làm chuyên môn hoặc quản lý dịch vụ việc làm hoặc cung ứng lao động từ đủ 02 năm trở lên".
Đồng thời, đơn giản hóa điều kiện "đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù"; "đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc"; "trốn khỏi nơi cư trú"; "bị Toà án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc liên quan đến dịch vụ việc làm" thành điều kiện "Không thuộc một trong các trường hợp sau đây: bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi". Bãi bỏ điều kiện "Là người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp".
Phương án cũng đổi tên thủ tục hành chính "Cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm" thành "Cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm"; "Gia hạn Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm" thành "Gia hạn Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm", để phù hợp với quy định tại Khoản 5 Điều 28 Luật Việc làm năm 2025. Đồng thời, bãi bỏ quy định yêu cầu nộp Phiếu lý lịch tự thuật của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; Phiếu lý lịch tư pháp của người Việt Nam đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trường hợp cần thiết, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cá nhân để hoàn thiện hồ sơ; hoặc cá nhân được xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp bản điện tử đã được cấp trên ứng dụng định danh và xác thực điện tử VNeID.
Ngoài ra, Phương án đơn giản hóa Mẫu Đơn đề nghị cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm; Mẫu đơn đề nghị gia hạn Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm; một số giấy tờ chứng minh kinh nghiệm của người đại diện theo pháp luật. Thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Riêng đối với việc cấp Giấy phép hoạt động, Phương án giảm thời gian giải quyết thủ tục này từ 07 ngày làm việc xuống còn 05 ngày làm việc.
Bên cạnh đó, Phương án cũng đổi tên thủ tục hành chính "Cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm" thành "Cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm". Đồng thời, bãi bỏ quy định yêu cầu nộp các hồ sơ, giấy tờ, đơn giản hóa Mẫu đơn đề nghị, thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử… giống như đối với việc cấp/ gia hạn Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm.
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 484/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về rà soát tình hình triển khai Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 về phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII và giải pháp bảo đảm cung cấp điện trong thời gian tới.
Thông báo kết luận nêu rõ, qua kiểm tra, đôn đốc, rà soát cho thấy việc triển khai các nhiệm vụ đặt ra trong thực hiện Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII còn rất chậm so với tiến độ đề ra, nếu không kịp thời tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ triển khai thì sẽ ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia, cũng như bảo đảm cung ứng đủ điện phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội, sản xuất và đời sống của người dân trong thời gian tới.
Các vấn đề còn vướng mắc tập trung vào (i) thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện tại các địa phương, do địa phương chưa nắm rõ các quy định, trách nhiệm, thẩm quyền trong việc phân cấp, phân quyền. Đề nghị Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan hướng dẫn, tập huấn cho các địa phương; (ii) Đối với các cơ quan Trung ương, Chính phủ, chủ yếu liên quan đến điện hạt nhân và điện gió ngoài khơi. Đề nghị các bộ, ngành liên quan ban hành các văn bản quy định theo thẩm quyền, tập trung chỉ đạo, hướng dẫn địa phương triển khai thực hiện; (iii) Về thể chế, quy định pháp luật, Bộ Công Thương cần tiếp tục tổng hợp ý kiến của các địa phương, doanh nghiệp, báo cáo, tham mưu cấp có thẩm quyền tháo gỡ để có thể thực hiện được ngay, và để sửa đổi các quy định trong thời gian tới.
Đẩy nhanh tiến độ, đưa các nhà máy vào vận hành sớm hơn từ 3 đến 6 tháng
Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng yêu cầu đối với các dự án đã có chủ đầu tư: Các chủ đầu tư khẩn trương đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 03 tháng 01 năm 2025; xây dựng kế hoạch, đường găng tiến độ, gửi về UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để báo cáo Bộ Công Thương chủ trì kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, bảo đảm việc triển khai, thực hiện các dự án theo đúng kế hoạch đã đề ra.
Bộ Công Thương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ, đưa các nhà máy vào vận hành sớm hơn từ 3 đến 6 tháng, đảm bảo quy trình, chất lượng; yêu cầu các chủ đầu tư có cam kết tiến độ, thời gian vận hành cụ thể. Đồng thời có phương án xử lý nghiêm đối với các nhà đầu tư đăng ký phát triển các dự án năng lượng nhưng chậm hoặc không triển khai.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động phối hợp chặt chẽ với các chủ đầu tư thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, di dân, tái định cư theo quy định; đồng thời tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư và nhà thầu trong quá trình thi công xây dựng công trình, bảo đảm hoàn thành các dự án theo đúng tiến độ.
Đối với các dự án chưa có chủ đầu tư, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương chỉ đạo các địa phương triển khai ngay việc lựa chọn nhà đầu tư dự án theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, hoàn thành trong Quý IV năm 2025; đồng thời đẩy nhanh tiến độ đầu tư để hoàn thành theo kế hoạch.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương cập nhật danh mục nguồn và lưới điện được xác định trong Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII vào quy hoạch tỉnh và các quy hoạch có tính kỹ thuật, chuyên ngành như quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch sử dụng đất để tổ chức không gian làm cơ sở thực hiện đầu tư xây dựng các dự án điện; tổ chức thực hiện việc lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện theo thẩm quyền, bố trí quỹ đất cho phát triển các công trình điện theo quy định của pháp luật; hoàn thành trong Quý IV năm 2025.
Bộ Công Thương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm toàn diện trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nếu để chậm trễ trong việc lựa chọn nhà đầu tư.
Xem xét, xử lý các khó khăn, vướng mắc trong triển khai Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình phát triển, triển khai các dự án nguồn, lưới điện để đề xuất giải pháp bảo đảm tiến độ theo quy hoạch được duyệt, xử lý theo thẩm quyền và quy định đối với các dự án chậm tiến độ.
Chủ động nghiên cứu, xử lý; hướng dẫn, đề nghị các bộ, ngành, địa phương và cơ quan liên quan rà soát, xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật đối với các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý các khó khăn, vướng mắc. Tuyệt đối không để các dự án, công trình ách tắc do việc xử lý chậm trễ các thủ tục hành chính của bộ, ngành, cơ quan, địa phương. Hoàn thành trong tháng 10 năm 2025.
Bộ Công Thương bám sát yêu cầu tại Nghị quyết số 70-NQ/TW, khẩn trương hoàn thiện việc sửa đổi, bổ sung các quy định về: Cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn; phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới, điện tự sản xuất, tự tiêu thụ; hoàn thành trong tháng 10 năm 2025. Đồng thời, xem xét theo thẩm quyền và quy định đối với việc điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp không làm thay đổi quan điểm và mục tiêu của quy hoạch, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, kế thừa, ổn định giữa các quy hoạch, xử lý dứt điểm, nhanh chóng các đề xuất, kiến nghị của cơ quan, địa phương nhằm đáp ứng tiến độ thực hiện Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII.
Các bộ, ngành tích cực nghiên cứu, hướng dẫn địa phương xử lý khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện phát triển các dự án nguồn điện, lưới điện liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật do bộ, ngành chủ trì xây dựng.
Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan liên quan, bám sát yêu cầu tại Nghị quyết số 70-NQ/TW, rà soát kỹ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, các thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư, các quy định về đấu thầu của các dự án để ban hành hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi quy định, bảo đảm thu hút đầu tư, phù hợp với tình hình thực tiễn, thúc đẩy sớm đưa các dự án điện vào vận hành. Hoàn thành trong tháng 10 năm 2025.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan liên quan để thực hiện xem xét, đánh giá, quyết định việc lựa chọn đơn vị khảo sát và giao khu vực biển để thực hiện khảo sát dự án điện gió ngoài khơi theo thẩm quyền, đúng quy định pháp luật về điện lực, pháp luật về biển, tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, và các quy định liên quan; đảm bảo tiến độ triển khai thực hiện phát triển dự án điện gió ngoài khơi. Hoàn thành trong tháng 10 năm 2025.
Tuyệt đối không được để xảy ra tình trạng thiếu nhiên liệu đối với các nhà máy nhiệt điện
Phó Thủ tướng yêu cầu các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Công nghiệp-Năng lượng Quốc gia Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Binh đoàn 19-Bộ Quốc phòng quyết liệt hơn nữa trong triển khai các dự án nguồn và lưới điện được giao làm chủ đầu tư bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường, đặc biệt là hai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương để tháo gỡ khó khăn trong giải phóng mặt bằng, đấu nối, đầu tư nguồn và lưới điện.
Chỉ đạo các nhà máy điện thuộc phạm vi quản lý làm tốt công tác chuẩn bị sản xuất, tuyệt đối không được để xảy ra tình trạng thiếu nhiên liệu (than, khí, dầu) đối với các nhà máy nhiệt điện và thiếu hụt nước các hồ thủy điện.
Chủ động các giải pháp bảo dưỡng và chuẩn bị vật tư, thiết bị dự phòng thay thế đối với hệ thống lưới điện phân phối, hạn chế tối đa sự cố, sửa chữa, ngừng, giảm cung cấp điện trong quá trình vận hành.
Các Tập đoàn: TKV, PVN, Binh đoàn 19-Bộ Quốc phòng tập trung cung cấp đủ than, khí cho các nhà máy điện theo kế hoạch vận hành và yêu cầu của hệ thống điện; phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng điện.
Tập đoàn EVN đẩy nhanh tiến độ đàm phán hợp đồng mua bán điện theo quy định, với tinh thần hài hòa lợi ích nhà nước, nhà đầu tư và người dân.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu chủ đầu tư các dự án điện khẩn trương đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện dự án, sớm đưa dự án vào vận hành theo quy hoạch và kế hoạch thực hiện quy hoạch được duyệt. Trong trường hợp có khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, báo cáo rõ và đề xuất giải pháp xử lý, tháo gỡ theo phân cấp địa phương, Trung ương; chịu trách nhiệm về tiến độ và hiệu quả dự án theo quy định.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 247/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ về đăng ký, xóa đăng ký và mua, bán, đóng mới tàu biển đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 86/2020/NĐ-CP ngày 23/7/2020.
Tuổi của tàu biển được tính bằng số năm và bắt đầu từ ngày bàn giao tàu biển.
Nghị định 247/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 11 Điều 3 quy định cách xác định tuổi của tàu biển. Theo đó, tuổi của tàu biển được tính bằng số năm và bắt đầu từ ngày bàn giao tàu biển.
Ngày bàn giao tàu biển là ngày hoàn thành cuộc kiểm tra lần đầu trước khi tàu được đưa vào sử dụng làm cơ sở cho việc cấp các giấy chứng nhận kỹ thuật về an toàn hàng hải theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và được ghi trên các giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật đó.
Theo Bộ Xây dựng, tuổi tàu biển được tính bằng số năm và bắt đầu từ ngày bàn giao để đưa vào sử dụng sẽ sát với thời gian thực tế hoạt động của tàu, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mua, bán với lộ trình, giá thành hợp lý mà vẫn phù hợp với giới hạn tuổi tàu biển được đăng ký tại Việt Nam. Cách xác định tuổi tàu theo ngày bàn giao góp phần thúc đẩy doanh nghiệp vận tải biển trang bị những tàu phù hợp với tài chính, năng lực khai thác, nâng cao tổng trọng tải GRT đội tàu biển quốc gia, nhằm làm tăng thị phần vận tải biển của đội tàu biển quốc gia giảm bớt lệ thuộc vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển của các hãng tàu nước ngoài là cần thiết.
Thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử
Bên cạnh đó, Nghị định 247/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều quy định như: Đặt tên tàu biển; thủ tục đăng ký tàu biển không thời hạn; thủ tục đăng ký tàu biển có thời hạn; thủ tục đăng ký tàu biển tạm thời; chấp nhận các hồ sơ, thủ tục, dữ liệu điện tử để phù hợp với việc thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử theo quy định tại Nghị định 45/2020/NĐ-CP.
Cụ thể, trong hồ sơ đề nghị chấp thuận đặt tên tàu biển, Nghị định mới chấp nhận có các hợp đồng mua, bán tàu biển hoặc hợp đồng đóng mới tàu biển, hoặc các bằng chứng khác có giá trị pháp lý tương đương về quyền sở hữu đối với tàu biển:
Bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao điện tử được cấp sổ gốc hoặc bản sao điện tử được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu Hợp đồng mua, bán tàu biển hoặc hợp đồng đóng mới tàu biển hoặc các bằng chứng khác có giá trị pháp lý tương đương về quyền sở hữu đối với tàu biển (kèm bản dịch công chứng hoặc bản sao điện tử bản dịch công chứng được chứng thực từ bản chính nếu hợp đồng viết bằng ngôn ngữ nước ngoài);
Bản chính hoặc bản sao điện tử được cấp từ sổ gốc hoặc bản sao điện tử được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (trường hợp chủ tàu là hợp tác xã) hoặc giấy phép thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam (trường hợp chủ tàu là tổ chức nước ngoài);
Bản sao có chứng thực hoặc bản sao điện tử được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu hộ chiếu đối với trường hợp chủ tàu là cá nhân người nước ngoài.
Tổ chức, cá nhân nộp trực tiếp 01 bộ hồ sơ hoặc gửi qua hệ thống bưu chính hoặc qua hệ thống Dịch vụ công trực tuyến đến cơ quan đăng ký tàu biển.
Nghị định 247/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ 30/10/2025.
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng ký Quyết định số 33/2025/QĐ-TTg ngày 15/9/2025 về Mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Quy định mới về hoạt động của Mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước
Quyết định gồm 4 Chương, 20 Điều quy định về hoạt động của Mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sau đây gọi là Mạng truyền số liệu chuyên dùng).
Cách thức tổ chức, quản lý, vận hành mạng truyền số liệu chuyên dùng
Quyết định quy định cụ thể về việc tổ chức, quản lý, vận hành mạng truyền số liệu chuyên dùng. Cụ thể, mạng truyền số liệu chuyên dùng là hệ thống thông tin quy mô quốc gia, kết nối từ trung ương đến cấp xã phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và để các cơ quan, tổ chức trung ương và địa phương sử dụng, khai thác chung nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng bao gồm các thành phần sau: mạng trục; mạng truy nhập; trung tâm điều hành tại Hà Nội; ba trung tâm vận hành khai thác mạng tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó, mạng trục phục vụ chuyển tiếp kết nối giữa mạng nội bộ, trung tâm dữ liệu và hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức sử dụng dịch vụ với nhau. Mạng trục gồm: ba trung tâm miền, ba trung tâm dự phòng, ba mạng đô thị tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh; trung tâm tỉnh và cổng kết nối tại các tỉnh, thành phố. Cụ thể:
- Trung tâm miền gồm trung tâm dữ liệu, thiết bị mạng, thiết bị bảo mật, kênh truyền, hệ thống phụ trợ được lắp đặt phục vụ chuyển tiếp kết nối giữa miền Bắc, miền Trung, miền Nam và trong phạm vi một miền;
- Trung tâm dự phòng là trung tâm miền phục vụ cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin mạng và khôi phục kết nối, dịch vụ trong trường hợp xảy ra sự cố đối với trung tâm miền;
- Mạng đô thị gồm thiết bị mạng, thiết bị bảo mật, kênh truyền, hệ thống phụ trợ được lắp đặt phục vụ chuyển tiếp kết nối cho các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở trung ương tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và chuyển tiếp kết nối lên trung tâm miền;
- Trung tâm tỉnh gồm thiết bị mạng, thiết bị bảo mật, kênh truyền, hệ thống phụ trợ được lắp đặt phục vụ chuyển tiếp kết nối cho các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương và chuyển tiếp kết nối lên trung tâm miền;
- Cổng kết nối là thiết bị mạng, thiết bị bảo mật hoặc thiết bị khác có chức năng tương đương để cung cấp giao diện kết nối giữa trung tâm tỉnh, mạng đô thị và thiết bị đầu cuối của mạng truy nhập.
Mạng truy nhập gồm thiết bị đầu cuối, kênh truyền phục vụ kết nối từ mạng nội bộ, trung tâm dữ liệu và hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức sử dụng dịch vụ đến mạng trục. Mạng truy nhập gồm mạng truy nhập cấp I và mạng truy nhập cấp II.
Mạng truy nhập cấp I có phạm vi kết nối từ trung ương đến cấp tỉnh cho các cơ quan, tổ chức, đối tượng kết nối quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Quyết định này.
Mạng truy nhập cấp II có phạm vi kết nối từ cấp tỉnh đến cấp xã cho các cơ quan, tổ chức, đối tượng kết nối quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Quyết định này.
Trung tâm điều hành mạng gồm hạ tầng nhà trạm, hệ thống phần cứng, phần mềm, hệ thống phụ trợ được lắp đặt để quản lý, điều hành, giám sát và kiểm soát truy nhập mạng trục và mạng truy nhập trên phạm vi toàn quốc.
Trung tâm vận hành, khai thác mạng gồm hạ tầng nhà trạm, hệ thống phần cứng, phần mềm, hệ thống phụ trợ được lắp đặt để vận hành, giám sát và kiểm soát truy nhập mạng trục và mạng truy nhập trong phạm vi một miền.
Quyết định nêu rõ: Mạng truyền số liệu chuyên dùng được quản lý, vận hành, giám sát qua các nền tảng, hệ thống quản lý tập trung.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng cung cấp hạ tầng kết nối dùng chung để triển khai các mạng riêng ảo cho các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị (Mạng thông tin diện rộng của Đảng, Mạng tin học diện rộng của Chính phủ - CPNet, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố), phân hệ mạng mật truyền đưa thông tin, dữ liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước và các mạng viễn thông dùng riêng khác phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (không bao gồm mạng viễn thông dùng riêng phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu).
Quy định về dịch vụ, ứng dụng, nền tảng và kết nối
Quyết định cũng quy định dịch vụ và ứng dụng, nền tảng, cụ thể như sau:
Dịch vụ cung cấp trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng bao gồm: Dịch vụ mạng riêng ảo; dịch vụ hội nghị truyền hình; dịch vụ truy nhập Internet chuyên dùng cung cấp cho Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Ban Đảng ở trung ương; các dịch vụ khác theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Ứng dụng, nền tảng trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng bao gồm: Nền tảng số quốc gia; nền tảng số dùng chung của ngành, lĩnh vực, vùng; ứng dụng, nền tảng dùng chung của các cơ quan: Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; ứng dụng, nền tảng của bộ, ngành, địa phương.
Đối với quy định về kết nối, Quyết định yêu cầu các thành phần của Mạng truyền số liệu chuyên dùng kết nối với nhau bằng hạ tầng kênh truyền, bảo đảm dự phòng đối với các kết nối trên mạng. Các cơ quan, tổ chức sử dụng dịch vụ kết nối với nhau thông qua mạng trục.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng kết nối Trung tâm dữ liệu quốc gia, trung tâm dữ liệu của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố; kết nối với các mạng viễn thông khác và các hệ thống thông tin để phục vụ liên thông, đồng bộ, bí mật nhà nước trong hoạt động chuyển đổi số của cả hệ thống chính trị.
Dữ liệu, nền tảng, hệ thống thông tin của các cơ quan sử dụng được kết nối liên thông, đồng bộ với nhau qua Mạng truyền số liệu chuyên dùng tuân thủ các quy định của pháp luật và Khung kiến trúc tổng thể quốc gia số.
Thống nhất địa chỉ IP, tham số kết nối, cổng kết nối và chính sách định tuyến trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng.
Bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin mạng, bí mật nhà nước
Đối với việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin mạng, Quyết định quy định mạng truyền số liệu chuyên dùng được triển khai đầy đủ các biện pháp bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin mạng theo quy định pháp luật.
Trung tâm dữ liệu, hệ thống thông tin, mạng nội bộ phải được kiểm tra trước khi kết nối Mạng truyền số liệu chuyên dùng và bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin mạng theo quy định của pháp luật.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng được giám sát an ninh mạng, an toàn thông tin mạng và kiểm soát truy nhập tập trung tới thiết bị đầu cuối của mạng truy nhập thông qua sử dụng các nền tảng, hệ thống quản lý tập trung.
Hệ thống thông tin, mạng nội bộ của cơ quan, tổ chức sử dụng dịch vụ phải tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an ninh mạng, an toàn thông tin mạng của Việt Nam; kết nối, chia sẻ thông tin giám sát an ninh mạng, an toàn thông tin mạng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thiết bị đầu cuối của mạng truy nhập phải đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cho phép phân tách dịch vụ; quản lý, giám sát từ nền tảng, hệ thống quản lý tập trung theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Bí mật nhà nước truyền đưa trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu. Dữ liệu, thông tin thuộc bí mật nhà nước khi truyền đưa trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng phải được phân loại, mã hóa bằng giải pháp bảo mật cơ yếu theo đúng cấp độ bí mật và được xử lý trên các hệ thống đáp ứng yêu cầu bảo mật tương ứng, do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Cơ quan chủ quản dữ liệu, nền tảng, hệ thống thông tin chủ trì xây dựng phương án và tổ chức thực hiện liên thông thuộc phạm vi quản lý bảo đảm các biện pháp bảo vệ dữ liệu, bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (15/9/2025); thay thế cho Quyết định số 8/2023/QĐ-TTg ngày 05/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước./.