
Hội thảo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình 1187 - Ảnh: VGP/TG
Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1187/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển vật lý giai đoạn 2021–2025 (Chương trình 1187), tạo nền tảng quan trọng cho việc nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia trong một lĩnh vực khoa học cơ bản có vai trò đặc biệt then chốt.
Sau 5 năm triển khai, Chương trình đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, đồng thời mở ra những định hướng chiến lược cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Theo bà Lê Yên Dung, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN), vật lý là nền tảng của hàng loạt lĩnh vực khoa học và công nghệ hiện đại như công nghệ lượng tử, vật liệu mới, năng lượng cao, công nghệ bán dẫn, siêu máy tính và trí tuệ nhân tạo.
Việc Chính phủ ban hành Quyết định số 1187/QĐ-TTg thể hiện quyết tâm chiến lược trong việc đầu tư cho khoa học cơ bản, đồng thời thúc đẩy sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu ứng dụng.
Sau 5 năm triển khai, năng lực nghiên cứu vật lý của Việt Nam đã được tăng cường rõ rệt. Một trong những kết quả nổi bật là chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, thể hiện qua tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ tại các trường đại học trọng điểm đạt từ 80% - 90%, vượt mục tiêu đề ra trong Chương trình. Đây được xem là nền tảng quan trọng để hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, đủ khả năng tham gia các nhiệm vụ KHCN lớn trong nước và quốc tế.
Song song với đó, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu vật lý tiếp tục được quan tâm đầu tư. Nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm và cơ sở nghiên cứu hiện đại được xây dựng và nâng cấp, tập trung tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TPHCM, góp phần cải thiện đáng kể điều kiện nghiên cứu và đào tạo.
Một điểm sáng được cộng đồng khoa học ghi nhận là năng lực công bố quốc tế của lĩnh vực vật lý Việt Nam có bước tiến quan trọng. Tạp chí Journal of Science: Advanced Materials and Devices (JSAMD) đạt hệ số ảnh hưởng (IF) 8.0, xếp hạng Q1 ở cả bốn lĩnh vực, trở thành dấu mốc đáng chú ý của khoa học Việt Nam trên bản đồ quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành; các đề tài cấp quốc gia, cấp Bộ thu hút sự tham gia tích cực của các nhà khoa học và nghiên cứu sinh trong và ngoài nước.
Hoạt động hợp tác quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu. Việt Nam duy trì vai trò là thành viên tích cực của Viện Nghiên cứu Hạt nhân Liên hợp (JINR – Dubna), đồng thời tăng cường hợp tác với các trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới như KEK, CERN, RIKEN theo mô hình đồng tài trợ, đồng nghiên cứu. Đặc biệt, Trung tâm Quốc tế Vật lý dạng II dưới sự bảo trợ của UNESCO hoạt động hiệu quả, tạo sức lan tỏa và kết nối trong khu vực.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình 1187 cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Kinh phí nghiên cứu còn hạn chế; khả năng tiếp cận các thiết bị nghiên cứu lớn chưa thực sự thuận lợi; năng lực giữa các nhóm nghiên cứu còn chưa đồng đều.
Đáng chú ý, thứ hạng công bố SCOPUS của lĩnh vực vật lý có xu hướng giảm, đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp mạnh mẽ hơn để duy trì và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực ASEAN.
Trên cơ sở tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình 1187 và bối cảnh phát triển KHCN quốc tế, Bộ KH&CN xác định một số định hướng trọng tâm cho giai đoạn tới. Theo đó, Bộ sẽ tập trung đầu tư có trọng điểm vào các hướng vật lý mũi nhọn có khả năng tạo đột phá như vật lý lượng tử, vật liệu mới, vật lý hạt, năng lượng cao, mô phỏng vật lý trên siêu máy tính; đồng thời thúc đẩy nghiên cứu phục vụ phát triển các công nghệ chiến lược theo các quyết định của Chính phủ.
Cùng với đó, việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh quy mô quốc gia sẽ được ưu tiên, với cơ chế hỗ trợ ổn định từ 3–5 năm nhằm tạo ra các công bố chất lượng cao và sản phẩm KHCN đạt trình độ quốc tế.
Bộ cũng định hướng hoàn thiện cơ chế tiếp cận thiết bị lớn, hạ tầng nghiên cứu dùng chung; đẩy mạnh hợp tác quốc tế theo mô hình linh hoạt, hiệu quả; đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý nhiệm vụ KHCN, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ về công bố, thiết bị và nhóm nghiên cứu, tạo điều kiện để các nhà khoa học tập trung cho hoạt động chuyên môn.
Thu Giang