Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) - Ảnh: VGP
Theo ông Trần Quốc Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN), nghiên cứu khoa học cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là nền móng cho phát triển khoa học ứng dụng, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 562/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học biển giai đoạn 2017 - 2025.
Trong điều kiện ngân sách dành cho khoa học cơ bản chưa thật dồi dào, chương trình đã tập trung lựa chọn các nhiệm vụ nghiên cứu có chất lượng, gắn với xây dựng năng lực lâu dài cho hệ thống khoa học quốc gia.
Đến nay, những kết quả đạt được cho thấy hướng đi này là phù hợp và hiệu quả. Một trong những dấu ấn nổi bật là kết quả công bố khoa học. Số lượng và chất lượng bài báo quốc tế tăng trung bình khoảng 20% mỗi năm. Đáng chú ý, các nhà khoa học Việt Nam đã có công trình được công bố trên những tạp chí khoa học hàng đầu thế giới như Science và Nature.
Cùng với đó, số lượt trích dẫn quốc tế tiếp tục gia tăng, phản ánh tác động khoa học ngày càng rõ nét và mức độ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đội ngũ nghiên cứu trong nước.
Không chỉ nâng cao chất lượng công bố quốc tế, Chương trình 562 còn góp phần cải thiện vị thế của hệ thống tạp chí khoa học trong nước. Hai tạp chí khoa học thuộc lĩnh vực Hóa học và Khoa học Trái đất của Việt Nam đã được đưa vào hệ thống SCOPUS, qua đó nâng cao uy tín học thuật và mở rộng kênh công bố cho cộng đồng khoa học trong nước.
Về vị thế khoa học, Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng tương đối cao trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xếp từ thứ 38–50 thế giới, thứ 10–12 ở châu Á và thứ 3–5 trong khu vực ASEAN.

Ông Trần Quốc Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN) - Ảnh: VGP/TG
Những kết quả này cho thấy hiệu quả của chiến lược đầu tư có trọng điểm cho khoa học cơ bản, đồng thời khẳng định tiềm năng nâng cao năng lực cạnh tranh khoa học quốc gia trong trung và dài hạn.
Bên cạnh công bố và thứ hạng, phát triển tiềm lực nghiên cứu là kết quả quan trọng mang tính nền tảng của Chương trình 562. Thông qua 95 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, chương trình đã góp phần hình thành khoảng 90 nhóm nghiên cứu mạnh.
Đặc biệt, nhiều nhóm nghiên cứu trẻ đã từng bước khẳng định năng lực nghiên cứu độc lập, chủ động hội nhập quốc tế và gắn kết chặt chẽ nghiên cứu khoa học với đào tạo sau đại học.
Đến nay, khoảng 70/95 đề tài đã được nghiệm thu; các đề tài còn lại đang hoàn thiện theo quy định, trong đó nhiều kết quả đã được đưa vào thử nghiệm và có định hướng ứng dụng rõ ràng.
Ở từng lĩnh vực cụ thể, các kết quả nghiên cứu đều mang giá trị khoa học và thực tiễn rõ nét. Trong lĩnh vực Hóa học, các nghiên cứu tập trung vào xử lý chất độc hại môi trường, phát triển vật liệu mới phục vụ y dược, hóa học xanh, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế như Công ước Stockholm.
Lĩnh vực Khoa học sự sống ghi nhận việc xây dựng nhiều cơ sở dữ liệu quan trọng, trong đó có cơ sở dữ liệu hệ gen người Việt Nam, dữ liệu hệ gen phục vụ chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh, dữ liệu độc chất học môi trường và cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học tích hợp vào hệ thống GBIF.
Đối với Khoa học Trái đất và Khoa học biển, nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao đã được triển khai, như xây dựng tiêu chí lồng ghép yếu tố sinh thái và biến đổi khí hậu trong quy hoạch sử dụng đất; xác định bể chứa cacbon hữu cơ tại đồng bằng sông Hồng; đánh giá tiềm năng khoáng sản vàng ẩn sâu; xây dựng tiêu chí phân vùng cảnh quan biển, đảo phục vụ phát triển kinh tế biển xanh; nghiên cứu cơ chế hình thành bão và nâng cao năng lực dự báo mưa lớn, gió mạnh tại khu vực miền Trung.
Thực tiễn triển khai Chương trình 562 cho thấy, khi khoa học cơ bản được đầu tư đúng hướng, ổn định và có trọng tâm, hiệu quả mang lại là rõ ràng và có thể đo đếm được.
Theo ông Trần Quốc Cường, những kết quả này càng có ý nghĩa trong bối cảnh Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá chiến lược, trong đó khoa học cơ bản là nền tảng tri thức. Các nhóm nghiên cứu mạnh và nhóm nghiên cứu trẻ chính là lực lượng nòng cốt, quyết định năng lực cạnh tranh khoa học quốc gia trong trung và dài hạn.
Chương trình 562 đã tạo nền tảng thực tiễn quan trọng để triển khai tinh thần Nghị quyết 57. Đồng thời, từ thực tiễn triển khai chương trình cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện cơ chế, bảo đảm tính ổn định dài hạn của các nhiệm vụ nghiên cứu và chính sách phát triển đội ngũ khoa học trẻ, qua đó phát huy hiệu quả đầu tư và bảo đảm sự phát triển bền vững của khoa học và công nghệ Việt Nam trong giai đoạn tới.
Thu Giang