
Cải cách, hiện đại hóa hải quan mang lại những lợi ích rõ nét cho doanh nghiệp
Mở rộng chế độ ưu tiên, tạo điều kiện cho các dự án công nghệ trọng điểm
Trước hết, một trong những điểm đổi mới cốt lõi của Luật Hải quan sửa đổi theo Luật số 90/2025/QH15 là việc bổ sung điều kiện áp dụng và chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp. Việc bổ sung này hướng tới minh bạch hơn trong cơ chế ưu tiên, đồng thời gắn trực tiếp với những lĩnh vực công nghiệp then chốt.
Theo đó, chế độ ưu tiên được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến công nghiệp bán dẫn, công nghệ cao, công nghệ chiến lược và công nghệ số trọng điểm theo danh mục do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố. Danh mục này có mã số hàng hóa thống nhất với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam, nhờ vậy bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán trong quản lý.
Hơn nữa, việc mở rộng chế độ ưu tiên trong lĩnh vực hải quan dành cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp thực hiện dự án công nghệ chiến lược hoặc dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các dự án nghiên cứu và phát triển, thiết kế, sản xuất, đóng gói, kiểm thử sản phẩm chip bán dẫn, dự án xây dựng trung tâm dữ liệu trí tuệ nhân tạo, cũng như doanh nghiệp thực hiện dự án sản xuất sản phẩm phụ trợ trực tiếp trong công nghiệp bán dẫn được đưa vào phạm vi điều chỉnh.

Việc nộp chứng từ điện tử thay thế chứng từ giấy đã giúp tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí
Theo đó, so với điều kiện áp dụng chế độ ưu tiên cho doanh nghiệp thông thường, nhóm doanh nghiệp này không cần đáp ứng điều kiện về kim ngạch và điều kiện về tuân thủ pháp luật hải quan, pháp luật thuế trong 2 năm liên tục. Do đó, các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực công nghệ có thể tiếp cận nhanh hơn các cơ chế ưu tiên về thủ tục hải quan, rút ngắn hành trình gia nhập thị trường và triển khai dự án.
Tuy nhiên, việc áp dụng chế độ ưu tiên này chỉ giới hạn đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến công nghiệp bán dẫn, công nghệ cao, công nghệ chiến lược và công nghệ số trọng điểm theo danh mục của Bộ Khoa học và Công nghệ. Danh mục này được thống nhất mã số với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam, nhằm bảo đảm tính rõ ràng trong thực thi.
Từ đây, có thể thấy việc mở rộng chế độ ưu tiên không làm phát sinh thủ tục mới, mà hướng đến giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục hải quan, song song vẫn bảo đảm được yêu cầu quản lý.

Đại diện Hải quan khu vực VI trao đổi về kinh nghiệm về xây dựng Hải quan số - bước đệm để hướng đến xây dựng mô hình Hải quan thông minh và Cửa khẩu thông minh
Tiếp đó, Luật Hải quan sửa đổi bổ sung quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra và giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ về thiết lập cơ chế "làn xanh" để hỗ trợ doanh nghiệp phụ trợ, việc sửa đổi này nhằm giảm thời gian thông quan và rút ngắn thủ tục tương đương với các nước trong khu vực.
Luật đã bổ sung Điều 43a, quy định rõ ràng khái niệm và trách nhiệm kiểm tra, giám sát đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ là hàng hóa giao, nhận tại Việt Nam theo chỉ định của thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán, gia công, thuê, mượn giữa doanh nghiệp Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Những lô hàng này phải thực hiện thủ tục hải quan và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan.
Vì vậy, quy định mới được kỳ vọng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp về thời gian, chi phí, đồng thời loại bỏ các vướng mắc kéo dài nhiều năm liên quan đến chính sách thuế và thủ tục trong hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ.
Đặc biệt, với việc bổ sung Điều 47a, quy định còn có tính chất chuyển tiếp. Theo đó, các tờ khai đã đăng ký nhưng chưa hoàn tất thủ tục hải quan trước khi luật có hiệu lực vào ngày 01/7/2025 vẫn được tiếp tục áp dụng. Qua đó, cơ quan hải quan tạo điều kiện để doanh nghiệp không bị gián đoạn hoạt động, đảm bảo ổn định chính sách và tiếp tục thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu tại chỗ một cách thuận lợi.
Song song với đó, các nội dung sửa đổi, bổ sung không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, mà góp phần giảm thêm thời gian xử lý, qua đó giảm chi phí thực tế của doanh nghiệp.
Theo đại diện ngành hải quan, doanh nghiệp cần lưu ý hai điểm then chốt khi luật có hiệu lực. Một là cơ chế ưu tiên mở rộng, với điều kiện linh hoạt hơn dành cho lĩnh vực công nghệ cao và công nghiệp bán dẫn, nhưng áp dụng đúng phạm vi danh mục do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố. Hai là quy định mới về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ, đặc biệt là cơ chế chuyển tiếp, giúp giải quyết dứt điểm những vướng mắc tồn tại trong nhiều năm qua.
Bên cạnh những bước tiến quan trọng, quá trình thực thi cũng đặt ra thách thức. Mặt khác, cơ quan Hải quan không chỉ thực hiện quy định của Luật Hải quan, mà còn phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật khác liên quan như thuế, bảo vệ môi trường, khoa học công nghệ, an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, y tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác.
Thời gian qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hải quan được sửa đổi, bổ sung với số lượng lớn và thường ban hành theo thủ tục rút gọn, có hiệu lực ngay. Điều này khiến công chức hải quan, người dân và doanh nghiệp phải liên tục cập nhật, nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn, không tránh khỏi những khó khăn nhất định.

Việc hoàn thiện thể chế pháp luật về hải quan là giải pháp chủ chốt, được xem là "đột phá của đột phá", giúp tạo thuận lợi thương mại, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan, góp phần phát triển nhanh và bền vững, củng cố niềm tin của người dân
Theo đó, ngành Hải quan khẳng định việc hoàn thiện thể chế pháp luật về hải quan là giải pháp chủ chốt, được xem là "đột phá của đột phá". Việc sửa đổi nhằm tạo thuận lợi thương mại, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan, góp phần phát triển nhanh và bền vững, củng cố niềm tin của người dân.
Hơn nữa, Luật sửa đổi bổ sung thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách tài chính, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Văn bản mới bảo đảm tính hợp pháp, thống nhất trong hệ thống pháp luật và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Cùng với đó, các quy định sửa đổi góp phần quan trọng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy công nghiệp phụ trợ và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Qua đó, các văn bản pháp luật về hải quan được xây dựng theo đúng trình tự, thủ tục, hướng tới tăng cường cải cách hành chính, giải quyết các yêu cầu thực tiễn, hạn chế chồng chéo giữa các cơ quan quản lý. Đặc biệt, quy định chú trọng chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp công nghiệp bán dẫn và công nghệ cao.
Việc hoàn thiện quy chế, quy trình nghiệp vụ tạo cơ sở pháp lý triển khai mô hình hải quan số, hải quan thông minh, Chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Từ đây, mô hình tổng thể Hải quan số, Hải quan thông minh tiếp tục được hoàn thiện để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Hệ thống soi chiếu, giám sát của cơ quan Hải quan
Theo đại diện Ban Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan (Cục Hải quan), ngành hải quan đã đầu tư hạ tầng công nghệ số hiện đại, dung lượng lớn, băng thông rộng, làm chủ dần các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây. Hầu hết các thủ tục hải quan đã được triển khai trực tuyến. Hệ thống hạ tầng điện toán đám mây cho trung tâm dữ liệu đã hoàn thành bằng nguồn vốn đầu tư công, tạo nền tảng để tiếp tục triển khai các hệ thống công nghệ tiên tiến.
Ngành hải quan đang triển khai giai đoạn 3 của Cơ chế một cửa quốc gia; đồng thời hướng đến xử lý 80-85% khối lượng công việc liên quan kiểm tra chuyên ngành trên hệ thống này.
Ở mảng hải quan số, cơ quan hải quan đã tái thiết kế quy trình nghiệp vụ, xây dựng hồ sơ thiết kế cơ sở và chuẩn bị ký hợp đồng triển khai dự án công nghệ thông tin mới. Dự án này được kỳ vọng thay đổi toàn diện hệ thống quản lý nghiệp vụ; tuy nhiên sẽ thực hiện theo lộ trình, từng bước đưa toàn bộ công tác quản lý lên hệ thống số.
Huy Thắng